Quan Điểm Của Đạo Phật Về Vấn Đề Này Như Thế Nào?
Con
người có số mệnh hay không ? Có nên tin vào số mệnh hay không ? Thái độ
của các triết gia và của các tôn giáo lớn đối với vấn đề số mệnh như
thế nào, và đặc biệt là đạo Phật, một trong những tôn giáo lớn của thế
giới và là tôn giáo lớn nhất, có số tín đồ đông nhất ở nước ta hiện nay,
quan niệm vấn đề số mệnh như thế nào ? Đó là nội dung chủ yếu của bài
này. Hy vọng qua đây có thể giải đáp được một vài bức xúc chủ yếu của
đông đảo quần chúng hiện nay về vấn đề này.
Trong cuộc sống xã hội
đầy bất trắc, và đặc biệt là trong thời gian chiến tranh có rất nhiều
chuyện xảy ra, có thật không hư cấu, khiến người ta tin là có số mệnh.
"Nhanh cũng chết, chậm cũng chết, may thì sống", đó là câu thường được
nói tới trong suốt thời gian binh lửa , khi giữa cái chết và cái sống,
khoảng cách chỉ là một tích tắc đồng hồ hay là một sợi gang sợi tóc.
Trong một bối cảnh xã hội và đất nước đầy bất trắc, dầu sôi lửa bỏng đến
như vậy, số người tin vào chuyện tướng số, bói toán, cầu đảo phải rất
nhiều, và ngày càng nhiều.
Vậy có cơ sở đạo lý gì cho tất cả những chuyện này hay không ?
Con
người là sinh vật có lý trí, đối với những tai họa lớn giáng vaò một
đất nước, một vùng, một dân tộc, hay một cá nhân, nhât là những trường
hợp đột tử xảy ra cho một người hay một số người… con người không thể
tin đó là ngẫu nhiên mà tin là có sự tác động của những nguyên nhân sâu
xa, có thể là siêu nhiên, mà trình độ hiểu biết hiện nay của con người
không giải thích được.
Tôi có người bạn cũ là anh Vũ Thơ, một lần,
anh tâm sự : Có chuyện xảy ra ngay trong tỉnh mà tôi phụ trách, khiến
tôi nghi rằng có một cái gì đó không phải là vật chất đứng đằng sau
những chuyện đó. Chuyện như sau :
"Tại một xã gần Quốc lộ số 1 nối
liền Hà Nội với tỉnh lỵ Ninh Bình, có một cô gái xưa nay vẫn lười
biếng, không hay đi làm. Thế mà một hôm, mặc dù trời mưa lớt phớt, cô
lại ra đồng làm cỏ sớm hơn mọi người. Một chiếc ô tô con chạy nhanh trên
đường quốc lộ, không hiểu sao trượt bánh, băng ngang qua đường rơi vào
đúng chỗ cô gái đang làm cỏ, nhận cô ta xuống bùn chết liền. Tôi đích
thân đến xem nơi xảy ra tai nạn. Từ chỗ cô gái làm cỏ đến vệ đường cũng
phải đo được gần chục thước, chiếc ô tô phải chạy nhanh lắm mới có thể
băng qua gần 10 mét được. Tại sao lại xảy ra chuyện như vậy nhỉ, một cô
gái hằng ngày vẫn lười không đi làm, tại sao đúng hôm nay lại đi làm
trước mọi người ngay trong khi trời đang mưa lớt phớt…"
Còn bao
nhiêu chuyện nữa, cũng vô lý tương tự như chuyện cô gái làm cỏ, xảy ra
trong và sau thời gian chién tranh của thập niên 60 và 70, làm mọi người
dù là duy vật cũng phải tin vào số phận hay số mệnh.
Cơ quan thủy
sản của Hải Phòng trước đây là một ngôi nhà bốn tầng, tôi đã từng đến
thăm trong thời gian có chiến dịch máy bay Mỹ dội bom miền Bắc. Một quả
bom xuyên đã rơi trúng cơ quan thủy sản, vì là quả bom xuyên, nên nó
xuống tận hầm mới nổ, khiến cho những người nào nhanh chân chạy xuống
hầm trước thì đều chết. Trái lại những người còn chậm chân ở tầng ba,
tầng hai thì lại không can gì, mặc dù ai cũng đều hú vía.
Tôi có
một anh bạn tên Sự, nguyên là Vụ trưởng Vụ Tài vụ của Bộ Công nghiệp
nặng, khi Bộ này chưa tách thành nhiều Bộ anh có một cái hầm bê tông ở
gần nhà, có thể nói là an toàn 100% để tránh máy bay. Không may cho anh
bạn tôi là hôm ấy anh có xuống hầm khi máy bay đến, nhưng lại ngồi ở cửa
không chịu vào sâu bên trong hầm như vợ và các con của anh. Máy bay Mỹ
thả một quả bom tạ vào nhà máy điện Yên Phụ nhưng không trúng, bom nổ
gây một chấn động dữ dội, anh Sự ngồi ở cửa hầm đầu đập vào thành bê
tông, bị vỡ sọ chết ngay tức khắc. Anh đã chết ở nơi an toàn nhất, làm
sao hiểu được ?
xem diện mạo
Vì
vậy mà ở miền Bắc, trong thời kỳ máy bay Mỹ ném bom dữ dội đã lưu hành
câu nói ở cửa miệng nhiều người : "Nhanh cũng chết, chậm cũng chết, chỉ
có may thì sống".
Cái may đó phải chăng là số mệnh hay số phận ?
Các triết gia các tôn giáo cổ kim nhận thức vấn đề số mệnh và số phận
như thế nào ?
I Các thuyết túc mệnh luận, định mệnh luận, thiên mệnh luận :
Nói
chung, tất cả mọi thuyết dẫn tới thái độ yên phận và tiêu cực của con
người đều thiếu giá trị nhân bản, dù chúng mang bất cứ nhãn hiệu nào.
Túc
mệnh luận là thuyết cho rằng số phận con người là do quá khứ an bài,
xếp đặt tất cả, mọi cố gắng hay nỗ lực của con người đều vô ích, như dân
gian từng nói :
Con vua rồi lại làm vua,
Con sãi ở chùa lại quét lá đa…
Những
người ở Trung Quốc xưa hay nói câu : "Nhất ẩm nhất trác, mặc phi tiền
định", nghĩa là ăn một miếng, uống một chén, không gì là không do quá
khứ quyết định trước. Có thể nói, đó là những người theo túc mệnh luận
cực đoan.
Định mệnh luận cũng là túc mệnh luận, nhưng cường điệu
tính chất bất khả kháng của số mệnh. Ý nói, số mệnh là quyết định, mọi
cố gắng của con người đều vô ích.
Thiên mệnh luận có nhiều nghĩa,
không phải nghĩa nào cũng sai. Nếu hiểu thiên mệnh là thiên đạo, tức là
đạo Trời, là luật tắc tự nhiên, áp dụng vào thế giới của nhân sinh thì
không có gì sai. Phải chăng, đó là ý tứ của Khổng tử trong Luận ngữ :
"Ngô… ngũ thập nhi tri thiên mệnh" – "Ta… năm mươi tuổi thì biết mệnh
Trời". Nếu hiểu mệnh Trời là số mệnh mà ông Trời quy định cho mình thì
đó là số mệnh luận, hay đúng hơn là thiên mệnh luận, và tất nhiên là
Phật giáo sẽ bác bỏ thuyết đó. Nhưng Tống Nho Chu Hy lại giải thiên mệnh
như là "nguyên lý vận hành và biến hóa của tự nhiên", thì đây không
phải là số mệnh luận. Nhưng vấn đề còn tùy thuộc ở phái Tống Nho hiểu
luật tắc tự nhiên như thế nào.
Ở chương XVI cuốn "Đạo đức kinh",
Lão Tử cũng nói "Phục mệnh", nhưng trong văn cảnh của chương này, thì
mệnh ở đây rõ ràng chỉ có nghĩa là đạo, chứ không phải là số mệnh.
"Phù
vật vân vân, các phục kỳ căn, quy căn viết tĩnh, thị vị phục mệnh" –
"Muôn vật phồn thịnh, mỗi vật đều trở về cội gốc của mình , trở về cội
gốc thì gọi là tĩnh, tức là trở về với mệnh".
Rõ ràng, Lão Tử dùng từ mệnh ở đây không phải với nghĩa số mệnh, mà với nghĩa đạo,tức là cội nguồn của trời đất, muôn vật.
Trong
Thần hệ của Hy Lạp cổ đại có thần số mệnh gọi là Fate, mà cả đến Zeus,
vị thần tối cao đứng đầu các vị thần, cũng phải e dè, nể sợ. Như vậy
người Hy Lạp cổ đại tin rằng tất cả các vị thần, kể cả Zeus cũng phải
phục tùng số mệnh.
Niềm tin ở số mệnh phổ biến như vậy, lan tràn
như vậy, từ xưa tới nay, từ Tây sang Đông, thì phải chăng niềm tin đó có
đạo lý của nó, cơ sở khoa học khách quan của nó ?
Người Pháp có câu : "L’homme propose, Dieu dispose" (Người kiến nghị nhưng Thượng đế bác đi).
Đây
cũng là một biểu hiện rõ nét của thuyết mà Phật giáo thường gọi là Thần
ý luận, khẳng định mọi sự việc diễn biến trong thế gian này đều do ý
muốn của Thượng đế, và ý muốn đó là siêu việt, vượt trên tầm hiểu biết
của con người, cho nên con người chỉ nên phục tùng, không những không
được chống đối mà còn phải cảm tạ và tri ân Thượng đế.
Thiên mệnh
luận cũng là số mệnh, nhưng số mệnh được nhân cách hóa thành Thượng đế
hay là số mệnh do một nhân cách siêu nhiên an bài, xếp đặt. Cái nguy của
thuyết này là một mặt khiến cho con người ta an phận thủ thường, mất
hết ý chí phấn đấu, mặt khác lại khiến cho con người trốn tránh trách
nhiệm của mình, thậm chí mình giết người, đoạt của, nhưng lại tự an ủi :
đó là do Thượng đế muốn như vậy, đó là ý chí huyền nhiệm của Thượng đế.
Phật
giáo tôn trọng tất cả các tôn giáo bạn, kể cả những tôn giáo công nhận
có Thượng đế tạo thế. Đó là đường lối thủy chung như nhất của Phật giáo
từ xưa đến nay, ở nước ta cũng như ở các nước Phật giáo khác. Tính bao
dung về mặt tư tưởng vốn là một đặc tính của Phật giáo mà các nhà tôn
giáo học trên thế giới đều công nhận, nhưng điều này không có nghĩa là
Phật giáo chấp nhận, không phản đối một số quan điểm của những tôn giáo
đó về vũ trụ và nhân sinh.
II. Một số tôn giáo và vấn đề số phận, hay số mệnh :
1.Tôn giáo Hy Lạp cổ đại :
Trong
tư tưởng của Hy Lạp cổ đại, vấn đề số phận (fate) chiếm vị trí quan
trọng và được biểu trưng bằng ba nữ thần ngồi dưới một gốc cây ở trung
tâm trái đất và quyết định số phận của mỗi người. Vị nữ thần thứ nhất có
tên Clotho, làm nhiệm vụ kéo sợi đan thành số phận cho mỗi người. Vị nữ
thần thứ hai có tên là Lachesie làm nhiệm vụ phân phối số phận cho mỗi
người. Vị nữ thần thứ ba có tên là Atropos, làm nhiệm vụ cắt đứt số phận
của mỗi người, tức là quyết định người nào phải chết và chết lúc nào.
Tư
tưởng số phận đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật kịch Hy Lạp cổ
đại. Trong các bi kịch của Sophocle, thầy bói (Oracle) làm chức năng
thông tin cho con người biết số phận của mình, như là một cái gì đã được
quyết định trước rồi. Đặc biệt là hoàn cảnh chết của mỗi người là do số
phận đã được quyết định như nội dung vở kịch Oedipe cho thấy.
Trên
đây đã nói về tư tưởng số phận hay số mệnh trong tư tường Hy Lạp cổ
đại, như trong các tác phẩm của Homer cho thấy, qua ba nữ thần số mệnh
nói trên đây, tuy Homer thường dùng từ số phận hay số mệnh theo số ít,
nhằm biểu trưng cho một sức mạnh siêu nhiên, siêu việt lên trên ý chí
con người.
2. An Độ giáo và vấn đề số mệnh :
An
Độ giáo như là tôn giáo thường nói tới một số thần linh như Vishnu,
Siva, Kali có khả năng quyết định số phận của mỗi cá nhân tín đồ, thậm
chí đôi khi ngược lại với hướng của nghiệp do cá nhân đó tạo ra.
Nhưng
Aán Độ giáo còn nói tới hai yếu tố khác, cũng quyết định đời sống của
con người là nghiệp (Karma) và thời. Yếu tố nghiệp cũng tương tự như
khái niệm nghiệp của đạo Phật, nhưng không triệt để và nhất quán bằng
đạo Phật. Vấn đề này sẽ được bàn kỹ trong phần "đạo Phật thay thuyết số
mệnh bằng thuyết nghiệp".
Còn yếu tố thời của An Độ giáo cũng tương đương như yếu tố thời trong Dịch học của Trung Quốc vậy.
Nói
chung, trong văn chương của An Độ giáo, cả ba yếu tố thần linh, nghiệp
(Karma) và thời đều được nhắc tới. Thí dụ, trong cuốn thánh ca nổi tiếng
"Bhagavad Gita", khi hoàng tử Arjuna do dự không muốn xung trận vì kẻ
thù không ai khác mà chính đều là bà con, họ hàng thân thưộc, thì thần
Krishna đóng vai trò người lái binh xa cho Arjuna, đã hiện nguyên hình
và giảng giải cho Arjuna là phải xung trận, vì số phận của kẻ thù là bị
tiêu diệt. Nội dung của tập thánh ca "Bhagavad Gita" cho thấy, chi phối
sự diễn biến của tình hình là ý chí của thần Vishnu cộng với sức mạnh
của nghiệp (karma).
Nói chung, phần lớn những người theo Aán Độ
giáo đều tin những sự kiện chủ yếu của cuộc đời, như thân phận tái sanh,
sức khỏe nói chung, người vợ tương lai hay chồng tương lai, số con và
giới tính của con, thời điểm chết đều là những sự kiện được xác định
trước bởi nghiệp (karma), hình thành từ trong đời sống quá khứ.
Một
số tín đồ Aán Độ giáo tin rằng, sự cố hay là tác động của một thần
linh, có thể đem lại cái chết đột tử cho một người nhất định, và trái
lại, việc xuất gia, sống lánh ở một thánh địa rất có thể thay đổi số
phận của một con người.
Ở Nam Aán, trong vùng cư trú của người
Tamils người ta tin rằng số phận một con người đã được an bài sẵn khi
mới sanh và được ghi trên trán bằng những dấu hiệu đặc biệt mà chỉ có
những thầy xem tướng giỏi mới giải mã và biết được.
bói toán
3. Do Thái giáo và vấn đề số mệnh:
Người
Do Thái cổ đại tin là những sự kiện lớn của lịch sử dân tộc Do Thái đều
do Thượng đế an bài sẵn, mà dân tộc Do Thái phải phục tùng. Quân đội
ngoại quốc xâm lặng Israel, chiếm cứ Israel, đày biệt xứ dân Do Thái đi
nơi khác, như là đế quốc Assiri, và Babylone và sau này đế quốc La Mã
từng làm, tất cả những tai họa đó giáng xuống đầu dân Do Thái đều không
phải ngẫu nhiên mà là do dân Do Thái đã không trung thành với liên minh
mà tổ tiên họ là tiên tri Moise, đã thay mặt họ, ký kết với Yahve trên
núi Sinai… Như vậy là số phận của một dân tộc Do Thái, do hai yếu tố
quyết định : một là những việc làm của bản thân dân tộc đó, phản bội lại
liên minh với Thượng đế. Yếu tố thứ hai là sự trừng phạt của Thượng đế
để đối với dân tộc Do Thái. Đó là sự can thiệp của một lực lượng siêu
nhiên, siêu việt lên ý chí của con người. Có thể nói, đây là số phận hay
số mệnh của dân tộc Do Thái đã được Thượng đế Yahve lựa chọn để truyền
bá chân lý của đạo Do Thái cho loài người.
4. Đạo Hồi và vấn đề số phận :
Từ
Ả Rập maniyab là số phận hay số mệnh xuất hiện trong thơ ca Ả Rập ngay
trước thời Mahomad. Con người có thể chết vì sự cố, trong chiến tranh
hay là vì bệnh tật, nguyên nhân sâu xa của cái chết đó là do tiền định.
Nhưng sức mạnh gì quyết định sự kiện cái chết của một con người ? Là
Thượng đế Allah chăng hay là số phận, như là một sức mạnh không bị nhân
cách hóa. Điều này không rõ trong văn chương Ả Rập, bởi lẽ không phải
thi sỹ Ả Rập nào cũng tin đạo Hồi, vì đạo Hồi mãi tới thế kỷ VII sau
dương lịch mới xuất hiện.
Thế nhưng trong phạm vi đạo Hồi, nhất là
trong kinh Coran, thì mọi sự kiện, thậm chí mọi hoạt động trong đời
sống của một tín đồ đạo Hồi đều do Thượng đế Allah an bài, chứ không
phải do số phận hay là số mệnh. Ngày tận thế cũng do Thượng đế Allah
quyết định, ý chí loài người không dự phần trong việc này.
Tuy
nhiên các nhà Thần học Hồi giáo về sau có xu hướng giảm bớt tính tuyệt
đối của sự can thiệp của Thượng đế vào đời sống con người, và dành một
phạm vi nhất định cho hoạt động của ý chí tự do.
Hình như các tôn
giáo thần quyền, ngày càng thiên về thuyết không phải Thượng đế an bài
và quyết định tất cả, và con người dù là sản phẩm do Thượng đế tạo ra,
nhưng vẫn có một phạm vi ý chí tự do nào đó, khiến nó có thể phạm sai
lầm và chịu sự trừng phạt của Thượng đế, điển hình là nhân vật Adam của
đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa, tuy do Thượng đế tạo ra nhưng vẫn ăn trái
cấm, ngược với lời dạy của Thượng đế… Do đó mà phạm tội gốc, tức là
nguyên tội.
Có thể nói, trong các thuyết của các tôn giaó lớn, chỉ
có thuyết Karma (nghiệp) của Aán Độ giáo là tương đối gần gũi (chứ
không phải đồng nhất) với thuyết nghiệp của Phật giáo. Tuy nhiên, cần
nhớ rằng Phật giáo nói nghiệp, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh tính bất
điïnh của nghiệp, nghiệp là có thể chuyển được. Người là chủ nhân đồng
thời cũng là thừa tự của nghiệp (trung bộ
III, Kinh "Tiểu nghiệp phân biệt).
5. Dịch học và số mệnh :
Phật giáo có phản đối các chuyện như là xem tướng số, bói toán hay không ?
Xin
trả lời rằng, vấn đề cơ bản của Phật giáo là giác ngộ và giải thoát,
không phải là tướng số vá bói toán. Vì vậy mà trong kinh Di Giáo, ngay
trước khi nhập Niết bàn, đưc Phật từng khuyên học trò mình là Tăng sĩ,
không nên bói toán và xem tướng số. Trong năm môn học được giảng dạy ở
các trường đại học Phật giáo trước đây ở Aán Độ không có môn tướng số và
bói toán, tuy có dạy các môn thể học như là thanh minh (ngôn ngữ), Công
xảo minh (tiểu thủ công nghệ), Y phương minh (chữa bệnh) Nhân minh
(logic học)…
Về Dịch học Phật giáo cũng không phản đối dịch học
như là một bộ môn Triết học của Trung Hoa, do các bậc thánh Trung Hoa
thời xưa là Phục Hy, Văn Vương, Chu Công, và Khổng Tử sáng lập và hoàn
chỉnh. Nhưng Dịch học, theo bản ý của các bậc thánh, đó không phải là
môn học bói toán, mà là một môn triết học bàn về đạo lý thịnh suy, lành
dữ, hạnh và bất hạnh của cá nhân và xã hội, đất nước ; và tinh thần của
Dịch học là đức năng thắng số chứ không phải là con người phục tùng số
mệnh. Tôi tuy không phải là người nghiên cứu chuyên môn về Dịch học,
nhưng cũng có nghiên cứu qua sách dịch, không phải là để xem chơi như
vua Trần Nhân Tôn nói trong chương I, bài phú Cư Trần lạc đạo (1) mà vì
có giảng về triết phương Đông ở một số trường đại học và ở học viện Phật
giáo. Tuy chỉ có biết đôi chút về Dịch học, nhưng với cái sở học của
mình, cũng thấy được bản ý của các bậc Thánh lập ra môn Dịch học không
phải là bói toán. Trái lại, bói toán chỉ làm dung tục hóa môn Dịch học
mà thôi. học giả Trung Hoa Phó Lệ Pháp trong cuốn "Quốc học khái luận"
(Đài bắc xuất bản, trang 40) viết rất đúng : "Bản ý của Văn Vương làm
Chu Dịch là để dạy người cái đạo lý trị loạn, thịnh suy, được mất. Người
đời sau dùng để bói toán, thực không phải là bản ý của Văn Vương" (2).
Hơn
nữa, nếu chúng ta xem kỹ một số lời giải các quẻ của Văn Vương hay các
lời giải các hào của Chu Công thì chúng ta sẽ thấy các bậc thánh này
nhấn mạnh vai trò của đức, của nỗ lực đạo đức cá nhân hơn là số. Nghĩa
là dù gặp phải cảnh ngộ khó khăn, gian khổ, nhưng nếu biết giữ đức hạnh,
sống chính đáng thì dữ biến thành lành, hung biến thành cát. Rõ ràng,
đó là quan điểm đức năng thắng số tuy các bậc Thánh không nói rõ như
vậy.
Để minh họa, có thể dẫn chứng câu sau đây trong Văn Ngôn
truyện một cuốn sách chủ yếu giaỉ thích hai quẻ Càn và Khôn : "Tích hiện
chi gia tất hữu dư hương, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương…"
Nghĩa là nhà tích chứa nhiều điều thiện thì sẽ có thừa điều lành, nhà
tích chứa nhiều điều ác thì sẽ gặp nhiều chuyện dữ…
Gia đình như
vậy, cá nhân cho tới đất nước, xã hội đều như vậy. Trị nước mà tàn bạo,
hà hiếp, bóc lột dân quá đáng thì dân sẽ làm loạn. Cá nhân sống ác, thì
gặp nhiều bất hạnh, nếu làm thiện thì sẽ gặp may mắn, đó là đạo Trời, là
luật tắc tự nhiên. Dịch học tuy bàn chuyện hưng vong, thịnh suy và đắc
thất nhưng cuối cùng vẫn khẳng định con người sống phải có đức, trị nước
cũng phải có đức, thì mọi việc mới thông suốt, hài hòa (sách dịch dùng
các từ hanh thông) chính đáng, bền vững (sách dịch dùng các từ lợi,
trinh).
III. Phật giáo dùng thuyết nghiệp thay cho thuyết số mệnh :
1. Nghiệp là gì ?
Nghiệp
là hành động có dụng tâm, hành động mà không có dụng tâm thì không phải
là nghiệp theo đúng nghĩa của từ này. Một người lái xe không cẩn thận
cán chết người. Người đó có thể mang tội ngộ sát, phải trả tiền bồi
thường và ngồi tù. Nhưng thật ra, anh ta không có tạo nghiệp sát sinh,
anh ta chỉ là một cái duyên, hay là một điều kiện trong kết cuộc như
vậy. Lạnh lùng mà nói, tình hình đích thực là như thế, nếu chúng ta có
một nhận thức sâu sắc về thuyết nghiệp.
Trong đời này, không có gì
xảy ra một cách ngẫu nhiên hết, mọi sự việc, quá trình xảy ra đều có
nhân duyên của nó. Có đủ nhân, đủ duyên và đúng thời, từ sự việc xảy ra
tốt hay xấu, lành hay dữ, may mắn hay bất hạnh. Mọi sự việc xảy ra đều
tương ứng với nhân duyên đã tạo ra nó từ trước. Và đây là nghiệp, chứ
không phải là số mệnh.
2. Dẫn nghiệp và mãn nghiệp – hai loại nghiệp quan trọng nhất :
Nghiệp
có nhiều loại nhưng Phật giáo thường chú ý hai loại chính là dẫn nghiệp
và mãn nghiệp. Dẫn nghiệp là nghiệp dắt chúng sanh đi vào một trong sáu
cõi, trong số này có ba cõi thiện là cõi loài Trời, cõi loài A Tu la và
cõi loài người. Ba cõi ác là cõi súc sanh, cõi quỷ đói, và cõi địa
ngục. Mắt trần chúng ta không thấy được loài Trời và loài A tu la. Chỉ
biết rằng hai loài naỳ có quyền năng và thọ mạng nhiều hơn, dài hơn loài
người rất nhiều. Mắt ta không thấy họ, nhưng không phải là họ không tồn
tại. Dân gian không biết, gọi họ bằng đủ các thứ tên như thần, tiên,
quỷ… Trong các loại chúng sanh sống ở cõi ác, có hai loại mắt người cũng
không thấy được là chúng sanh trong loại quỷ đói và chúng sanh trong
loài địa ngục. Loài quỷ đói là loài chúng sanh bụng rất to, nhưng cổ
họng rất bé cho nên luôn luôn bị đói. Chúng sanh ở địa ngục thì bị khổ
triền miên, khổ ở mức loài người không thể tưởng tượng nổi. Còn súc sanh
thì rất nhiều loại, không thể kể xuể được, nhưng chúng có đặc tính
chung là hay cấu xé lẫn nhau, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Loại súc
sanh quen thuộc nhất là gia súc như chó, mèo, gà, lợn, ngựa, trâu. Chúng
nó sống khổ thế nào, chúng ta cũng đều biết. Nhưng có điều nhiều người
không biết là nếu không sống thiện, không tu tập và sống lối sống ngu si
như súc vật thì sau khi chết chúng ta có thể tái sanh vào làm súc vật.
Rất có khả năng đó, chúng ta không thể xem thường.
Cho nên, ít
nhất chúng ta phải biết cơ chế vận hành của nghiệp, đặc biệt là loại
nghiệp gọi là dẫn nghiệp. Mục đích là dùng cơ chế vận hành của nghiệp để
cuộc sống chúng ta có ý nghĩa, để cho chúng ta chủ động tạo ra những
nghiệp có cường độ mạnh để cho ở đời này, cũng như ở các đời sống sau,
chúng ta không bị đọa vào các cõi ác, khổ, mà luôn tái sanh vào các cõi
lành, cõi thiện, dẫn chúng ta đến mục đích cao nhất là giác ngộ và giải
thoát.
Vì dẫn nghiệp quyết định hướng tái sanh, cho nên cũng có
tên gọi là tái sanh nghiệp, với tiếng anh tương đương là Reproductive
Kamma. Kamma là tiếng Pàli, nghĩa là nghiệp, còn tiếng Sanskrit tương
đương là Karma, một từ mà sách Tây phương rất hay dùng để chỉ nghiệp.
Tái
sanh nghiệp hay dẫn nghiệp là những hành động tạo nghiệp có cường độ
mạnh hay thiện hoặc bất thiện, quyết định hướng tái sanh của một chúng
sanh, cũng như những sự kiện chủ yếu ở đời sau của chúng sanh đó. Sau
đây tôi xin đưa vài ví dụ minh hoạ trước hết những hành động tạo nghiệp
cực ác, quyết định không tránh khỏi hướng tái sanh của một chúng sanh
vào một trong ba cõi ác là địa ngục, quỷ đói và súc sanh. Đó là các hành
động cố ý giết cha, mẹ, bậc thánh Ala hán,làm chảy máu Phật và phá sự
hoà hợp của tăng chúng. Nếu phạm một trong năm nghiệp ác nói trên, thì
nhất định phải tái sanh vào cõi sống ác, khổ. Năm trường hợp nói trên là
những trường hợp cực đoan, còn nói chung sống buông thả, không giữ năm
giới, không làm mười thiện thành thói quen, với tâm ác không biết sửa
chữa đều có nguy cơ sanh vào một trong ba cõi ác là địa ngục, quỷ đói,
và súc sanh, và dù có may mắn được tái sanh làm người thì sẽ là người
sống bất hạnh như chết yểu, tật nguyền, hay ốm đau, bị người đời khinh
rẻ…
3. Cường độ của nghiệp quyết định ở chỗ dụng tâm :
Yếu
tố gì tạo ra cường độ mạnh của nghiệp, khiến cho nghiệp đó quyết định
hướng tái sanh của chúng sanh đó. Chủ yếu là dụng tâm khi tạo nghiệp.
Thí dụ tạo nghiệp sát với tâm tham, tâm sân. Gần đây báo chí đăng vụ
giết người ở cửa hàng vàng Kim Sinh (Hà nội). Kẻ cướp đã giết bốn mạng
người một lúc để cướp vàng, đó là ví dụ sát sanh vì lòng tham. Trên báo
hằng ngày cũng từng đăng tin một cô gái, chỉ vì ghen tức đối với người
con riêng của chồng mình – một cháu bé năm tuổi – đã nhẫn tâm quẳng cháu
bé đó xuống sông Hồng. Sát sanh với tâm sân hận và ghen tức là loại
nghiệp rất mạnh, có thể khiến kẻ phạm tội đọa vào cõi ác không tránh
khỏi.
Đối với thiện nghiệp cũng vậy, cường độ của nghiệp thiện chủ
yếu do ở chỗ dụng tâm chứ không phải do ở quy mô và hình thức của sự
việc. Trong đạo Phật có câu : Làm việc đạo với cái tâm đời, tức là tâm
danh lợi, thì việc đạo biến thành việc đời ; còn làm việc đời với tâm
đạo, tức là cái tâm vì lợi ích của đạo và của chúng sanh, thì việc đời
cũng biến thành việc đạo.
Quan điểm trên về nghiệp giải phóng
những người nghèo hèn khỏi nỗi bức xúc của mình quá nghèo hèn, quá túng
thiếu, muốn làm việc thiện, muốn giúp người nhưng không biết xoay xở thế
nào.
Trong kinh 42 Chương có nói tới hạnh tùy hỷ bố thí. Đó là
hạnh chia xẻ niềm vui với người khác. Nếu sự chia xẻ niềm vui đó là thật
lòng, không chút ganh ghét thì công đức của hạnh bố thí tùy hỷ đó cũng
là vô lượng, cũng như một ngọn đuốc có thể giúp cho bao nhiêu nhà được
thắp sáng, nấu chín cơm, sưởi ấm v.v… mà để bố thí tùy hỷ có cần phải có
gì đâu, mà chỉ cần có tấm lòng biết chia xẻ niềm vui của người khác mà
thôi.
Đại sư Trung Hoa Trí Khải, trong bài tựa cuốn "Đồng mông chỉ
quán" kể trường hợp một Sadi trẻ, ở cùng chùa một vị trụ trì đã chứng
quả A la hán. Vị trụ trì chùa xem tướng học trò, biết trong vòng một
tuần nữa học trò mình sẽ chết bệnh không thể tránh khỏi, bèn lẳng lặng
cho học trò mình về thăm nhà. Anh học trò trên đường về nhà thấy một ổ
kiến trên bờ đê đang bị một dòng nước xoáy thốc vào bờ đê, đe dọa cuốn
trôi đi. Thầy Sadi trẻ động lòng thương lũ kiến đang nháo nhác, bèn nhảy
xuống sông, ra sức hàn lại chỗ đê có thể bị vỡ để cứu ổ kiến. Cứu được ổ
kiến, thầy Sadi về nhà. Và sau một tuần trở lại chùa, vị A la hán thấy
học trò mình trở lại chùa an toàn, khí sắc lại còn hồng hào hơn xưa, rất
lấy làm lạ, hỏi cặn kẽ đầu đuôi chuyện cứu ổ kiến. Vị trụ trì kết luận
là do thầy Sadi phát tâm từ bi rộng lớn, cứu ổ kiến cho nên đã chuyển
nghiệp, đáng lẽ phải chết trong vòng một tuần lại vẫn sống an toàn và
còn tiếp tục sống thọ trong nhiều năm nữa.
xem diện mạo
Câu
chuyện trên cũng tương tự chuyện một bà già ăn mày, sống trong thời
Phật ,muốn cúng dường Phật một ngọn đèn mà không đủ tiền để mua dầu. Đi
ăn xin, ky cóp mãi mới được một đồng. Nhưng khi đến cửa hàng thì chủ
tiệm lại nói một đồng không đủ để mua dầu thắp đèn. Nhưng vì chủ tiệm
cảm lòng thành của bà già cho nên vẫn bán. Cuối cùng bà già cũng có được
một ngọn đèn cúng dường Phật, không phải đặt trong tịnh xá nơi Phật
thuyết pháp, mà chỉ được đặt ở ngoài vườn. Ấy thế mà sau buổi thuyết
pháp của Phật, người ta đi dập tắt tất cả ngọn đèn ở trong nhà tịnh xá
cũng như ngoài vườn, mọi ngọn đèn đều dập tắt dễ dàng, chỉ riêng ngọn
đèn của bà già ăn mày cúng Phật thì người ta thổi mãi, dập mãi mà không
làm sao tắt được, cả đến Ngài Mục Kiền Liên, học trò thần thông đệ nhất
của Phật cũng bất lực. Được hỏi về sự kiện lạ lùng này, Phật nói đó là
sức mạnh lớn lao của lòng chí thành cúng dường Phật của bà già. Với tâm
thành lớn như vậy,thì dù là cúng dường một ngọn đèn nhỏ, cũng đem lại
cho bà ấy công đức vô lượng, khiến cho chư Thiên cũng cảm ứng, che cho
ngọn đèn không bị dập tắt.
Trong lịch sử truyền đạo của đức Phật
cũng không hiếm những chuyện minh chứng cho khả năng chuyển nghiệp của
những người tuy từng phạm nhiều tội ác trong quá khứ, nhưng sau khi được
gặp Phật, được nghe pháp và thành thật ăn năn hối lỗi, cải tà quy
chánh, một lòng tin đạo và hành đạo, thì ngay trong đời này cũng chứng
được quả Thánh. Đó là trường hợp nổi tiếng của Angulimala, vốn là một
tên cướp tàn bạo ở vương quốc Kosala, trường hợp của dâm nữ Ambanali ở
Vaisali, cả hai đều xuất gia theo Phật, tu hành không bao lâu đều chứng
quả Thánh A La Hán.
Tóm lại dụng tâm là yếu tố quyết định tính
chất và cường độ của nghiệp. Dụng tâm trong kinh tạng Pàli còn gọi là
tác ý, cho nên Phật giáo định nghĩa nghiệp là tác ý. Khi đã tác ý,theo
hướng thiện hay ác, tức là ta đã tạo nghiệp thiện hay ác rồi. Người bình
thường không hiểu cơ chế vận hành của nghiệp, cho nên rất hay xem
thường, thậm chí ngay đối với lời nói,họ cũng nói một cách vô tâm : Lời
nói bay đi, lời nói vô bằng ; không biết rằng ngay những ý nghĩ thoáng
qua đầu chúng ta còn là nghiệp , huống hồ là lời nói. Có lẽ, vì để răn
dạy người ta đừng nên coi thường sự bất thiện nơi lời nói là đạo Phật
phân tích có tới bốn điều bất thiện nơi lời nói là nói dối, nói ác, nói
chia rẽ, và nói vô nghĩa ; còn đối với sự bất thiện nơi thân thì có ba
là sát sanh, lấy của không cho và tà dâm ; còn sự bất thiện nơi tâm cũng
có ba là tham, sân, và si hay tà kiến.
4. Không được coi thường việc nhỏ :
Đức
Phật luôn răn dạy con người không nên coi thường những nghiệp thiện hay
ác dù là nhỏ, cũng như một đốm lửa nhỏ có thể đốt cháy đống rơm cao như
núi, như giọt nước nhỏ mãi rồi cũng làm bình lớn đầy tràn.
Kinh Pháp Cú có các bài kệ :
"Chớ chê khinh điều thiện,
Cho rằng chưa đến mình,
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người chí chứa đầy thiện,
Do chất chứa dần dần"
(Kệ 122, HT. Thích Minh Châu dịch)
Lại viết :
"Chớ chê khinh điều ác,
Cho rằng chưa đến mình,
Như nước nhỏ từng giọt
Rồi bình cũng đầy tràn,
Người ngu chứa đầy ác,
Do chất chứa dần dần"
(121)
5. Lợi ích của việc tu tập tâm :
Tuy
nhiên, cần chú ý là theo đạo Phật, dù là nghiệp nơi ý, nơi lời nói hay
nơi thân, căn bản vẫn là ở chỗ dụng tâm, ở chỗ chúng ta tu tập tâm hàng
ngày, khiến cho tâm ta trở thành thuần thiện, không nghĩ việc ác, chỉ
nghĩ điều lành. Một người biết tu tập tâm như vậy, tuy rằng chưa đạt tới
đích giác ngộ và giải thoát như các bậc Thánh, Phật hay A la hán, nhưng
có thể nói là đã trên con đường thẳng dẫn tới đích giác ngộ và giải
thoát tối hậu rồi. Hơn nữa, trên bước đường dài dẫn tới mục đích tối hậu
đó, con ngườii thiện nhất định sẽ không bị đọa vào cõi ác.
Kinh Pháp Cú ví người như thế, như bàn tay không thương tích mà cầm thuốc độc vậy, không can gì hết :
Bàn tay không thương tích,
Có thể cầm thuốc độc…
(Kệ 124)
Người ác làm hại người hiền cũng như kẻ ngu ngược gió, mà tung buị, bụi chỉ rơi vào mình mà không dính người :
Hại người không ác tâm
Người thanh tịnh không uế,
Tội ác đến kẻ ngu
Như ngược gió tung bụi….
(Kệ 125, kinh đã dẫn ở trang 75)
Vậy
nên, quyết định tính chất và cường độ của nghiệp là cái tâm của mình,
là ở trong lòng mình, như thi hào Nguyễn Du đã viết : "Thiện căn bởi tại
lòng ta". Tu Phật trước hết và chủ yếu là tu tâm, không phải chỉ vì
"Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" mà vì đức Phật cũng đã từng khuyến cáo
chúng ta :
Kẻ thù hại kẻ thu,
Oan gia hại oan gia,
Không bằng tâm hướng tà,
Gây ác cho tự thân.
(Kệ 42)
và :
Điều mẹ cha, bà con
Không thể làm được,
Tâm hướng chánh làm được
Làm được tốt đẹp hơn.
(Kệ 43)
6. Vấn đề cộng nghiệp :
Nghiệp
là sức mạnh lớn, khi nó là cộng nghiệp của một số người, vì không phải
là một mà là một số đông người tạo ra nó, và số đông ấy có thể là cả
loài người, cả một quốc gia, dân tộc hay một vùng, một địa phương.
Cộng
nghiệp của cả một dân tộc đan xen với biệt nghiệp của từng cá nhân,
khiến cho cơ chế vận hành của nghiệp khá phức tạp, mà chỉ có bậc Thánh
như Phật mới hiểu được tất cả ngọn ngành chi tiết.
Trong kinh Chép
lời Phật :"Với thiên nhãn thuần tịnh, vượt xa tầm nhìn loài người, Ta
thấy các chúng sanh chết và tái sanh như thế nào, Ta thấy những người
cao quý và kẻ nghèo hèn, kẻ xuất sắc và người bần tiện, mỗi người đều
theo nghiệp của mình tạo ra mà có được thân phận hạnh phúc hay bất
hạnh". (Chuyển dịch từ bản tiếng Anh "The Tibetan book of living and
dying" của Sogyal Rinpoche, trang 92).
Chúng ta không có được
thiên nhãn thanh tịnh để có thể được như Phật nắm bắt được tất cả cơ chế
vận hành phức tạp của nghiệp, nhưng tối thiểu chúng ta cũng biết được
đại khái, nhưng rất là đúng đắn, rằng : "Ở hiền gặp lành, gieo gió gặt
bão". Đó là sự minh triết của nhân dân Việt Nam mà tổ tiên, cha ông đã
tin theo đạo Phật gần 20 thế kỷ nay rồi, khiến cho một thuyết quan trọng
và phức tạp như thuyết nghiệp ảnh hưởng đến tâm lý của dân ta đến nỗi,
mỗi lần có sự cố bất hạnh xảy ra cho một người, một gia đình hay thậm
chí cả một vùng, chúng ta buột mồm nói : "Tội nghiệp!". Đó là tội của
nghiệp, nghiệp báo của từng người và là nghiệp báo chung, gọi là cộng
nghiệp, nghiệp của số đông…
Nghiệp chính là quy luật nhân quả tác
động trong phạm vi của nhân sinh. Đạo Phật nói quả nào nhân ấy. Một khi
quả chín muồi và xảy ra thì chúng ta biết đó không phải là ngẫu nhiên mà
là kết quả hợp thành của những nhân duyên đã từng được tạo ra và nay
chín muồi.
Nhưng đạo Phật không nói một cách máy móc : nhân nào
quả ấy. Vì sao ? Vì hằng ngày chúng ta không ngừng tạo nghiệp bằng ý
nghĩ, lời và thân hành động. Nghiệp này tiếp nối nghiệp kia, nghiệp sau
tác động trở lại nghiệp trước v.v…
Chính vì vậy mà đạo Phật không
nói số mệnh hay số phận , mà nói bất định nghiệp và chuyển nghiệp. Đó là
ranh giới phân biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo khác, kể cả với Aán
Độ giáo, khá gần gũi với Phật giáo, vì Aán Độ giáo cũng nói nghiệp
Karma.
Dẫn nghiệp hay cũng gọi là năng sanh nghiệp chỉ là những
loại nghiệp có cường độ mạnh, quyết định hướng tái sanh của một chúng
sanh. Thí dụ tất cả chúng ta ở đây đều là người. Chúng ta biết chắc là
trong đời trước, chúng ta đã tạo ra dẫn nghiệp (hay tái sanh nghiệp)
khiến chúng ta có được thân phận người,nhưng giữa chúng ta đã có bao
nhiêu sai biệt như già và trẻ, khỏe và yếu, nam và nữ, đẹp và xấu, và
mỗi người đều là thành viên những gia đình khác nhau với những cảnh ngộ
khác nhau. Do vậy mà ngoài dẫn nghiệp quyết định thân phận là người của
chúng ta, chúng ta còn tạo ra một loại nghiệp nữa, có cường độ yếu hơn
dẫn nghiệp mà sách Phật gọi là mãn nghiệp (sách tiếng anh dịch là
Supportive Karma), cũng có sách khác dịch là năng trì nghiệp.
7. Khái niệm mãn nghiệp :
Mãn
nghiệp hay năng trì nghiệp giải thích vì sao cũng là một thân phận
người mà có người hạnh phúc, người bất hạnh, người sang, kẻ nghèo hèn ;
người thì có uy tín nói ai cũng theo, trái lại có người nói rất giỏi
nhưng không ai tin ; người đẹp, kẻ xấu xí, có cô gái đẹp lại lấy phải
ông chồng xấu xí, lại có anh chồng xấu xí lại được người vợ đẹp sánh
Hằng Nga tái thế v.v… sao lại có những chuyện như vậy ? tất cả những
chuyện sai biệt như vậy, đều là quả báo của mãn nghiệp hay là năng trì
nghiệp.
Một câu hỏi đặt ra là : loại mãn nghiệp này là bất khả
kháng hay có thể chuyển được ? Xin trả lời, thuyết nghiệp của Phật giáo
là bất định nghiệp là nghiệp có thể chuyển. Đã có bao nhiêu người sinh
ra với sức khỏe rất yếu nhưng nhờ dày công luyện tập mà trở thành lực
sĩ. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện chỉ có 1/3 lá phổi mà sống đến tuổi hơn 80.
Triết gia Đức nói tiếng là Kant, vốn lúc bé rất ốm yếu nhưng nhờ sinh
hoạt, làm việc rất đều đặn và có giờ giấc mà sống rất thọ v.v..
8. Khái niệm năng tiêu nghiệp :
Trong
Phật giáo có khái niệm gọi là năng tiêu nghiệp, sách Anh ngữ có khi
dịch là countereactive karma hay là impeding karma. Loại nghiệp này tùy
thuộc vào tình hình mà có thể là tốt hay xấu.
Có thể đưa ra những
ví dụ sau đây để minh họa : Một người sinh ra có tư chất thông minh, nói
theo danh từ khoa học hiện nay là có gien thông minh. Nhưng người đó
lại sinh ra trong một gia đình giàu có, được cha mẹ nuông chìu cho nên
không chịu học hành, chỉ suốt ngày chơi bời khiến cho tính chất thông
minh bẩm sinh của mình bị thui chột đi, và cuối cùng anh ta trở thành
một gã bất tài, vô dụng ở đời. Những loại nghiệp anh ta đã tạo ra đều
thuộc loại năng tiêu nghiệp, xâú và tiêu cực, hủy hoại bẩm sinh tính
thông minh của anh. Bẩm tính thông minh đó cũng không phải ngẫu nhiên mà
chính do anh ta nuôi dưỡng, hun đúc trong một đời trước.
Còn
những ví dụ minh chứng các loại năng tiêu nghiệp tích cực thì rất nhiều.
Chỉ cần dẫn chứng trường hợp của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện hay bác sĩ
Nguyễn Văn Hưởng là đủ, vì ai cũng biết đều là chuyện người thật việc
thật và gần gũi với mọi người.
9. Dẫn nghiệp có thể chuyển được không ?
Có người thắc mắc, "mãn nghiệp có cường độ yếu nên có thể chuyển được, nhưng dẫn nghiệp có thể chuyển được không ?"
Xin trả lời rằng, dẫn nghiệp cũng có thể chuyển, trong những trường hợp như sau :
Đúng
là sau khi đã sanh ra làm người, có thân phận người, thì không thể
chuyển được thân phận người thành một thân phận không phải người. Thí dụ
như các đạo gia mơ tưởng uống thuốc trường sanh bất lão và bất tử, trở
thành thần, thành tiên ngay trong cõi thế này.
Tôi nghĩ rằng bàn
những chuyện như thế này là vô ích, vì nếu có một người như Từ Thức
chăng thì cũng chỉ là một người. Nên miễn bàn là hơn.
Nhưng đạo
Phật có khái niệm "năng hủy nghiệp" để giải thích những trường hợp tuy
có người thọ mạng vẫn còn, nghiệp lực của tái sanh nghiệp vẫn còn, nhưng
vì những người này trong một đời sống trước hay thậm chí trong đời sống
này có tạo ra những nghiệp cực mạnh,có khả năng tiêu hủy thân phận
người của họ, thì họ vẫn có thể mất thân phận người như thường. Đó là
những trường hợp chết đột tử hay bất đắc kỳ tử, như là trong các trường
hợp chết vì thiên tai, chết vì tai nạn máy bay hay xe cộ. Người bình
thường gọi đó là những trường hợp ngẫu nhiên bất hạnh, hay là số mệnh.
Nhưng theo đạo Phật, đó là nghiệp, là tác động của một loại nghiệp gọi
là năng hủy nghiệp, nó tiêu hủy thân phận người ngay khi người đó đang
sống bình thường. Người đó, trong một đời sống quá khứ hay thậm chí ngay
cả trong đời này, đã tạo ra một loại nghiệp có cường độ mạnh, đủ sức
tiêu hủy một dẫn nghiệp được tạo ra trước đó, quyết định thân phận
người. Sách Phật thường ví dụ tác động của loại nghiệp này như một cơn
gió thổi tắt ngọn đèn, tuy rằng ngọn đèn đó có thừa dầu và bấc.
IV. Con người là chủ nhân của nghiệp :
Xin
dẫn chứng lời của Đức Phật trong kinh "Tiểu nghiệp phân biệt" (Trung Bộ
III) : "Người là chủ nhân của nghiệp, cũng là thừa tự của nghiệp…"
Nghiệp do chính mình tạo ra và nghiệp trở lại chi phối mình. Cũng như
Nguyễn Du nói rất đúng trong "Truyện Kiều"
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Xin đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Chính
chúng ta chứ không phải một thần linh nào khác quyết định đời sống
chúng ta, và chúng ta quyết định nó bằng hoạt động hàng ngày, hàng giờ,
phút trong cuộc sống. Nếu tâm chúng ta hướng thiện thì chúng ta tạo
nghiệp thiện, hưởng quả báo thiện trong đời này và đời sau. Quy luật
nghiệp báo là quy luật nhân quả, giản dị, không có gì khó hiểu, không
cần phải mượn tới sức mạnh của thần linh hay sức mạnh mù quáng của số
phận để giải thích. Thuyết nghiệp của đạo Phật không những là khoa học
và công bằng nó còn tôn vinh trách nhiệm và giá trị con người. Nó thúc
đẩy con người luôn hoàn thiện mình, sống đạo đức, có lý trí và theo lẽ
phải. Nó nâng cao giá trị con người chứ không hạ thấp giá trị con người.
Nó khích lệ con người hành động và tiến bộ. Nó không dạy con người sống
tiêu cực và yếm thế. Thuyết nghiệp của đạo Phật, nếu được lý giải đúng
đắn và mọi người hiểu thấu và thực hành sẽ đem lại bao nhiêu tốt đẹp cho
xã hội và đất nước chúng ta, trong thiên niên kỷ mới sắp đến này.
Quá
khứ đã qua rồi, tương lai lại chưa đến, mọi người chúng ta hãy tỉnh
giác và có ý thức sống trong hiện tại từng giờ, từng phút nghĩ lành, nói
lành, làm thiện. Đó chính là nghiệp, là thuyết nghiệp không phải trên
bình diện lý thuyết mà là trong cuộc sống, trong thực hành.
Triết
gia Mỹ William James, chắc là có chịu ảnh hưởng của thuyết nghiệp của
đạo Phật, đã nói câu :"Chúng ta đang dệt đời chúng ta bằng một sợi chỉ
không tháo gỡ ra được " (Nous tissons notre vie d’un fil qui ne se
défera pas).
Câu nói của Nguyễn Du và của William James sẽ hoàn
toàn đúng với tinh thần thuyết nghiệp của đạo Phật, nếu thêm đôi điều
như sau :
Tuy nghiệp đã mang vào thân rồi, nhưng vẫn gỡ ra được,
nếu chúng ta biết ăn năn sửa chữa lỗi lầm, từ nay tránh mọi điều ác, làm
mọi điều lành, giữ tâm ý luôn luôn trong sạch, hướng thiện. Với câu của
William James, chúng ta cũng thêm, chúng ta dệt đời chúng ta với sợi
chỉ, không phải không tháo gỡ được, mà vẫn có thể tháo gỡ và dệt lại
được.
Và theo lời khuyên của hai vị, chúng ta hãy mang trên thân
mình toàn là nghiệp lành, hãy dệt đời chúng ta toàn bằng nghiệp lành,
nghiệp thiện, trong mỗi ý nghĩ, lời nói và việc làm hàng ngày. Và nhất
định, hạnh phúc sẽ đến với chúng ta trong cả đời này và đời sau.
Source: Nguyệt san Giác Ngộ số 48 ---------------
* Chú thích :
Trần
Nhân Tông viết :"Sách Dịch xem chơi, yêu tinh sáng, yêu hơn châu báu,
kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rỗi, trọng nhữ hoàng kim". Trần Nhân Tông
nói là xem chơi, nghĩa là Ngài không lấy sách dịch làm chuẩn.
Văn
Vương tác Chu Dịch đích bản chỉ nãi giáo nhân dĩ trị loạn, thịnh suy,
đắc thất chi lý, hậu thế dụng dĩ chiêm phệ, thực phi Văn Vương bản ý.
Tìm hiểu thêm về tử vi
nguồn:
http://manghoidap.vn/Co-nen-tin-vao-so-menh-hay-khong-18337.html