Thứ Hai, 30 tháng 12, 2013

Phong thủy phòng ngủ cho ngôi nhà?

Phòng ngủ đặc biệt ảnh hưởng đến chúng ta. Đó là nơi ta nghỉ ngơi, thư giãn và lấy lại sức mạnh nên vị trí giường ngủ là quan trọng. Tốt hơn cả là giường ngủ nên nằm trên đường chéo góc với cửa ra vào để họ có thể rộng tầm mắt thấy được người ra vào bảo đảm cho dòng khí lưu chuyển. nếu không họ có thể giất mình làm ảnh hưởng đế khí của mình khiến cho họ hay giật mình và hoảng hốt. điều này ảnh hưởng lan sang các liên hệ cá nhân và việc làm ăn. Khí lực mất quan bình sẽ nảy sinh làm sức khỏe suy yếu và các vần đế rắc rối khác. tử vi
phòng ngủ
1. nếu vì lý do gì giường ngủ không kê trên đường chéo góc với cửa ra vào thì treo một giương soi để chiếu ra cửa đó.
phòng ngủ
2. ở vị trí này giường ngủ còn xấu hơn nữa vì nó giống như quan tài.
3-4 Trong phòng ngủ này, người ở đây sẽ tõ ra quá mức bén nhạy tới cửa ra vào và tiếng động nào cũng khiến họ tỉnh giấc, cuối cùng thì ảnh hưởng đến đời sống của họ còn vượt đi rất xa khỏi giường ngủ. bói toán
phòng ngủ
Tìm hiểu thêm về phong thủy
nguồn: http://manghoidap.vn/Phong-thuy-phong-ngu-cho-ngoi-nha-18397.html

Phong thủy phòng bếp cho ngôi nhà?

Ở trong bếp, thầy Phong Thủy để ý nhất là lò nấu và người nấu cơm. Nhà bếp đại diện cho của cải. Theo lý luận thì thực phẩm tạo ra sức khỏe và ra hiêu suất công việc vì thực phẩm tốt qua con người khiến người đó có khả năng biến ra lợi nhuận lớn mà từ đó lại đem cải tiến thực phẩm của họ. Cũng như thế theo vòng lý luận ngược lại thì nguời nghèo hơn dùng thực phẩm kém chất luợng, do đó lợi nhuận cũng sút kém. xem diện mạo
Nếu nguời nấu bếp bị hoảng hốt thì một chuỗi kích động phản ứng được hình thành. Thí dụ nếu ông chồng thình lình ôm chầm vợ mình trong khi bà đang xắt cà rốt hay đang nấu đồ ăn trên bếp thì bà có thể nổi cáu, điều này có thể ảnh huởng đến liên hệ của họ trong tối hôm đó và rồi lan tới văn phòng ngày hôm sau.
Bếp lò cũng tuợng trưng cho tình trạng tài chính khá giả trong gia đình. Người ta cần giữ bếp sạch và làm việc đều đặn, như thế tiền sẽ dễ vào nhà. Nếu bếp khó cháy công việc làm hay bị phá ngang với nhiều trỡ ngại. Gia đình có thịnh vựợng hay không cũng có ảnh hưởng đến số lượng bếp được nấu như ta dùng nhiều bếp thì thêm tiền kiếm ra. bói toán
Cách chữa: đặt gương hay kim loại trắng trên tường bếp sau dãy lò và nếu cần ta còn viền thành lọ để tạo thêm không khí thỏai mái trong khi nấu ăn. Người nấu bếp sẽ không giật mình khi có người vào bếp nhờ nhìn phản chiếu sau dãy bếp lò. Số bếp lò dù có nhỏ mà dùng nhiều thì tiền kiếm được vẫn gia tăng. Nếu lò nấu nhìn vào một vách tuờng có cửa sổ thì dù cảnh trí có đẹp vẫn có ảnh hưởng nhất định đến người nấu, tốt hơn hết là đặt gương phản chiếu ra cửa bếp hay treo một chiếc khanh hay một qua 3 cầu thủy tinh giữa dãy bếp và cửa ra vào. tử vi
Đây là những biến cách khác về nhà bếp:
1. Vị trí này rất tốt. người nấu bếp dễ thấy người ra vào.
2. Vị trí lò này là tốt nhất, cách sắp xếp không bị gò bó.
3. Vị trí lò ở đây xấu cho nền tài chính và sự ổn định trong nhà.
Cách chữa: Treo gương chiếu bên trên lò nhìn ra cửa.
4. Lò bếp này đặt không gặp may.
Cách chữa: treo gương chiếu bên trên lò nhìn ra cửa.
5. Bếp lò này đặt thất cách và tù túng mà lại có thể làm hai cho nghề nghiệp của chủ nhà.
Cách chữa: Treo gương trên tường hình chữ L
6. Cách sắp xếp này dở tệ.
Cách chữa: Đặt gương trên tường theo hình vẽ, cách đặt gương này cũng làm tăng gấp đôi số bếp lò.
Tìm hiểu thêm về phong thủy
nguồn: http://manghoidap.vn/Phong-thuy-phong-bep-cho-ngoi-nha-18398.html

Phong thủy phòng ăn cho ngôi nhà?

Nơi ăn không nên quá gần ngay cửa ra vào vì lối đi bị trở ngại lúc đang ăn. Gặp tình thế này ta nên treo màn để ngăn tầm mắt của người bên ngoài đi vào với màn có dải kết hột; một quả bóng thủy tinh cũng thay  thế cho tấm màn loại trên. Một vị khách ăn danh dự nên ngồi quay ra phía cửa. xem diện mạo
phòng ăn
Nếu là phòng rộng thì tốt còn như phòng chật hẹp không cửa ra vào và cửa sổ nào khác thì nên đặt gương khắp bốn bên. Gương chiếu tượng trưng tăng thêm đĩa bát cũng như của cải.
Tìm hiểu thêm về phong thủy
nguồn: http://manghoidap.vn/Phong-thuy-phong-an-cho-ngoi-nha-18399.html

Phong thủy phòng khách cho ngôi nhà?

Nói chung cả chủ và khách nên quay ra cửa nhưng không trực diện với nó. Khách nên ngồi ở vị trí “chỉ đạo” ở trên đường chéo góc với cửa ra vào và chủ nhà ở bên cạnh để rộng tầm mắt trong phòng và cửa ra vào. bói toán
phòng khách
Đồ đạc sắp xếp cần có tiện nghi và tiếp đãi theo thông lệ. Sự xắp xếp theo hình kỉ hà tạo ra cảm giác trang trọng trong khi đặt cụm lại làm cho thân mật hơn. Các ghế sopha được xếp theo hình bát quái tạo may mắn, Gương chiếu đặt trên khung cửa sổ làm tăng ánh sáng và tầm nhìn ra ngoài.   Lò sưởi tạo ấm áp và may mắn, nhưng đồ đạc quá gần nó và quay về nó thì cần một tấm gương trên lò hay dựng gương hai bên nó. xem diện mạo
Tìm hiểu thêm về phong thủy
nguồn: http://manghoidap.vn/Phong-thuy-phong-khach-cho-ngoi-nha-18400.html

Phong thủy phòng tắm cho ngôi nhà?

Phòng tắm là nơi nước - tượng trưng cho tiền ra vào, sự chi tiêu thu nhập của chủ nhà. Tránh làm phòng tắm đối diện cửa ra vào để khi cần có việc ta được tự nhiên. Nếu không thế chủ nhà có thể bị hao tổn của cải,  sức khỏe, sẩy thai,... Để phòng tắm chỗ khuất là hay nhất. xem diện mạo
Cách chữa: Hoặc là đặt phòng tắm ở chỗ xa nhất cách cửa ra vào hay làm một phòng nhỏ có màn che chắn kín đáo. Còn không thì treo một chiếc khánh ở giữa khoảng phòng tắm và cửa ra vào hay lắp gương ngoài cửa phòng ấy. bói toán
Phòng tắm phải khoáng đãng, sáng sủa. Trong phòng nên dùng các màu nhẹ như xanh da trời, xanh hay vàng. Các sắc này giúp cho gia đình hòa hợp, vợ chồng yên vui.
Tìm hiểu thêm về phong thủy
nguồn: http://manghoidap.vn/Phong-thuy-phong-tam-cho-ngoi-nha-18401.html

Phong thủy ánh sáng cho ngôi nhà?

Trong thuật Phong thủy ánh sáng và đèn thường đuợc dùng làm cách chữa căn bản, để sửa sai cho sự mất quan bình của nguồn khí lưu chuyển nguồn ánh sáng cho một nơi chốn ảnh hưởng vào tâm kính và sức năng động của chủ nhà. Ánh sáng và đèn tượng trưng cho mặt trời và là điều cốt yếu cho sức khỏe, làm thuận khí – càng sáng càng tốt.
(Nếu một bóng đèn bị cháy ta thay nó bằng cái sáng bằng hay sáng hơn). xem diện mạo
Vì một căn nhà tối co thể ảnh hưởng xấu đến chủ nhà, đôi khi ánh sáng mờ được dử dụng cho tiệm ăn thì đây là ngọai lệ.
Tìm hiểu thêm về phong thủy
nguồn: http://manghoidap.vn/Phong-thuy-anh-sang-cho-ngoi-nha-18402.html

Chọn hướng xây nhà?

Hướng tốt nhất - hướng nam
lấy vợ hiền hòa làm nhà hướng Nam
Do vị trí địa lý và đặc thù khí hậu của Việt Nam (nhiệt đới, nóng ẩm, gió mùa) dẫn đến trong 4 hướng chính Ðông - Tây -Nam - Bắc thì hướng Nam (kế đó là cận Nam như Ðông Nam, Tây Nam) là hướng thuận lợi nhất trong xây dựng nơi ăn chốn ở. Nhà xây hướng Nam: buổi sáng tránh được ánh nắng chói (phía Ðông), buổi chiều không bị nắng chiếu "xiên khoai" gay gắt (phía Tây), vừa né được gió nóng từ phía Tây, lại không bị gió lạnh phương Bắc. Hướng Nam luôn là hướng gió chủ đạo của hầu hết mọi vùng trên lãnh thổ nước ta, mà thông gió tự nhiên là điều kiện tiên quyết trong xây dựng công trình hợp với khí hậu Việt Nam. xem diện mạo
Trăm người hầu không bằng đầu ngọn gió Gió Nam chưa nằm đã ngáy
Ðấy là các lợi điểm tối ưu của hướng Nam khi cất nhà. Mở cửa đón đựơc gió, cũng là đón những điều kiện tốt cho sinh hoạt con người. Gần như tất cả hang động có người ở tại vùng Hòa Bình xưa đều có cửa hang mở về hướng Nam. Các tòa thành cổ uy mở cổng tứ phía nhưng cổng chính lúc nào cũng là cổng phía Nam (ví dụ cửa Ngọ Môn ở Huế có nghĩa là cửa phía Nam, "Ngọ" ở đây là phương Nam theo trục Tý - Ngọ trên la bàn của thầy địa lý xưa chứ không phải là "cửa giữa trưa" như một số sách dịch tên Ngọ Môn ra tiếng nước ngoài đã hiểu sai). bói toán
Nếu gặp hướng không tốt?
hướng nhà
hướng nhà
Thực tế trong điều kiện đất đai đô thị khan hiếm và chật hẹp như hiện nay, thì dễ gì tìm một miếng đất ngôi nhà chính Nam. Vậy thì giải quyết sao? Các kiến trúc sư, các nhà xây dựng có học bài bản, trường lớp đáng hoàng đều biết những phép hóa giải. Và với sự trợ giúp của KHKT họ còn có thể cải xấu thành tốt. Xin nêu một giải pháp cụ thể về việc khắc phụchướng xấu. Ngôi nhà trong hình1 tại Quận Gò Vấp (TPHCM) mở cửa ra chínhhướng Tây, thường xuyên chịu nắng nóng ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe mọi người trong gia đình. tử vi
Nhận định: Gió, không khí vào nhà phía sau qua một sàn nước nhỏ (gió lùa) không đủ thông thoáng. Mặt trước lại dùng mảng kính bít kín gây hiệu ứng tích nhiệt. Trần thấp và mái tôn sát trần làm cho không khí trong nhà nóng bức và cảm giác tù túng.
Giải pháp khắc phục - biến đổi: Mở rộng diện tích giếng trời về phía Nam gấp 2 đến 3 lần khoảng sàn nước hiện hữu. Ðây chính là phễu hút nhiệt và thông gió tự nhiên cho toàn nhà. Mặt tiền sửa khung kính cố định thành các khung cửa xoay theo trục đứng để điều chỉnh đựơc tùy vào góc nghiêng mặt trời và lấy thông thoáng gió lân cận Tây. Nâng cao khoảng cách giữa mái tôn và trần (khoảng 1,5m) để tạo lớp đệm khí cách nhiệt (hình 2).
Việc kích hoạt nguồn khí, cải tạo điều kiện vi khí hậu giúp giảm đáng kể lựơng nhiệt tích tụ trong nhà, thay đổi tích cực môi trường sống đồng thời có thêm khoảng xanh thư giãn phía sau (hình 3).
Tìm hiểu thêm về phong thủy
nguồn: http://manghoidap.vn/Chon-huong-xay-nha-18403.html

Cách xác định cát hung cho mảnh đất?

Trong phong thuỷ khi xem đất, điểm cốt yếu là xem xét địa khí tại vị trí đất đó ra sao và vận dụng địa khí đó như thế nào. Có 3 cấp độ cơ bản trong ứng dụng phong thuỷ đó là:
1. Tầm Long: Tìm và chọn đất (xem địa hình, địa thế, địa mạo. . .)
2. Ðiểm Huyệt: Tìm và xác định vị trí trọng tâm của cuộc đất.
3. Lập Hướng: đặt công trình lên trên huyệt đã điểm, xác định hướng của trục chính theo phưo′ng hướng tối ưu. xem diện mạo
* Vài điều kiêng kỵ về địa mạo, địa hình của mình đất xây dựng:
1. Mặt trước tương đối thấp, mặt sau cao là cát từơng(thuận lợi, tốt lành) điều này cũng phù hợp với yêu cầu thoát nước nền và đảm bảo tầm nhìn .
2. Mặt đất xây dựng công trình tốt hơn cả là nên bằng phẳng tránh lồi lõm.
3. Tốt nhất là các mảnh đất có hình dạng vuông vức, tránh các mảnh đất tam giác bởi các cạnh và góc nhọn. Nếu mảnh đất là hình thang thì mặt tiếp xúc với đường giao thông nên hẹp phía sau rộng dần (nở hậu sẽ là nơi địa khí ngưng tụ rất tốt. Ngược lại thì địa khí dễ lưu tán, gọi là đất hung tướng. bói toán
4. Ðất thấp trũng, có nước tù đọng tạo không khí ẩm ướt thì không tốt. Cần khắc phục bằng cách đổ đất tôn cao, sang nền tiêu thuỷ để cải tạo môi trường ẩm ướt MINH ÐƯỜNG Trong khoa học phong thuỷ Minh Ðường được xem như là môi trường cảnh quan phía trước của một không gian cư trú cụ thể. Từ không gian khá rộng (đô thị, xóm làng) đến không gian tương đối hẹp như một định cư ngôi nhà nhỏ, cũng đều có Minh Ðường. Trong quan sát chọn lựa thế đất ở nông thôn, Minh Ðường tốt nhất là nơi có địa hình bằng phẳng, núi đồi (hoặc gò, bờ ruộng . . .)bao bọc có nước tụ ở phía trước. Ðối với đất trong đô thị, Minh Ðường phải có tỷ lệ tương đối nhất định với kiến trúc công trình và các nhà cửa, đường giao thông xung quanh. xem diện mạo
Tìm hiểu thêm về phong thủy
nguồn: http://manghoidap.vn/Cach-xac-dinh-cat-hung-cho-manh-dat-18404.html

Xem địa thế nhà trong hẻm?

Trong đô thị nhà mặt tiền có ưu thế của việc tiếp cận giao thông, thương mại nhưng đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của ô nhiễm khá cao. Nhà đất ở trong hẻm khi chọn được địa thế thuận lợi không những có được môi trường sống tốt mà còn có thể triển khai sinh lợi. Hẻm trong đô thị phần lớn khúc khiểu, xây dựng qua nhiều thời kỳ khá phức tạp, nhưng cũng có những quy luật chọn lựa địa thế tốt:
* Chiều rộng hẻm ổn định từ 5m trở lên là tốt cho xe cộ và lưu thông khí. Ði từ ngoài vào hay trong ra đều có thể quan sát thấy được đa số nhà đất của hẻm. Nền hẻm nên bằng hoặc cao hơn so với ngoài đường để tránh tù đọng nước tử vi
* Nhà đất không nên ở cuối vị trí hẻm cụt đâm thẳng vào vì các luồng gió độc thổi thẳng dễ gây bệnh, đồng thời khi có hỏa hoạn sẽ thoát hẻm khó. Tuy nhiên khi chiều dài hẻm cụt chỉ trong khoảng 40m thì lại khá tốt, đồng thời trục nhà không thẳng với trục của hẻm thì cũng không ảnh hưởng xấu nhiều. Nhà cuối hẻm có thể khắc phục khí xấu bằng cách trồng cây bói toán
* Nếu có điều kiện, khi mua đất trong hẻm (hoặc đường nội bộ khoảng 5m) ta nên chọn hoặc vận động cư dân xung quanh làm khoảng quay xe cuối hẻm cụt. Ðây là một hình thế tốt cho mọi lô đất kề cận vì tất cả đầu hưởng 1 Minh Ðường rộng rãi, thoáng đãng có thể kết hợp làm khoảng cây xanh chỗ dạo chơi . . . có thể trong hẻm có chỗ nhà cao nhà thấp, nhưng quan trọng là phía trước và hai bên lân cận nhà đất ta chọn đừng quá tăm tối và bị lấn át. Không nên nhô nhiều ban công vì tầm nhìn trong hẻm hạn chế hơn so với ngoài đường lớn, đồng thời cần tăng diện tích sân khi có thể: sân trước sân sau, sân giữa hay sân thượng đều tốt cho nguồn khí và lấy thêm được nhiều dương quang ( ánh sáng năng lượng mặt trời ) vào nhà. xem diện mạo
Tìm hiểu thêm về phong thủy
nguồn: http://manghoidap.vn/Xem-dia-the-nha-trong-hem-18405.html

Xem địa thế nhà trong đô thị?

Phép tầm long không phải chỉ xem xét địa hình, địa mạo mà còn phải chọn địa thế sao cho thiên khí địa khí hoà hợp. Trong đô thị núi sông nhiều nơi không có, công trình mới cũ chen kín, phân lô chật hẹp không thể xem địa thế như thông thường được phải xem các công trình xây dựng cao thấp như là núi non gò đồi, xem đường đi như là sông suối, quãng trống phía trước là Minh Ðường, công trình đối diện là án sơn. . . lấy đó là những yếu tố cơ bản để xét. Các địa thế đắc dụng trong đất đô thị là: xem diện mạo
* Mặt trước đất có khoảng cách trống thoáng đãng, nếu được hướng gió mát (Nam, Ðông Nam, Tây Nam ) hay mặt sông hồ nước (Chu Tước ) càng tốt. Nếu gặp trường hợp đường hẹp, hẽm nhỏ nhà cao che phía trước thì khi xây dựng nên giữ đúng lộ giới dưới trệt, đồng thời lùi các lầu trên cao, vừa đảm bảo tầm nhìn, thêm diện tích cây xanh trên ban công, vừa tăng khả năng lưu thông sinh khí cho công trình.
* Mặt sau đất đã có (hoặc dự kiến) các công trình xây dựng vươn lên che chở là tốt. Nếu đó là các hướng bất lợi, nắng chói gió lạnh (như hướng Tây, Tây Bắc, Ðông Bắc) thì càng cần hạn chế mở cửa và nên dùng các nhà cao làm chổ dựa (Huyền Vũ ) bói toán
* Các tình huống: một bên có công trình một bên hẻm, hoặc hẻm bên hông nối từ phía sau vòng ra trước, hoặc có đường đi bao bọc cho một nhóm lô đất(từ 5-9 lô ) đều là những địa thế thuận lợi nhiều mặt. Ta để ý các quy hoạch khu dân cư mới hiện nay thường không bố trí liên kế kéo dài mà phân nhóm ngắn theo đường nội bộ, tạo cảnh quang giao thông mới trường tốt ). tử vi
* Nếu lô đất nằm đối diện hoặc liền kề các miệng cống, dốc cầu nhà xởng, nhà kho... thì gia chủ phải chấp nhận ồn ào ô nhiễm, giao thông phức tạp. Nếu mua đất dùng làm nhà xưởng, sản xuất thì lại thuận tiện. Còn nếu mua làm nhà ở thì phải có biện pháp khắc phục về môi trường.
Tìm hiểu thêm về phong thủy
nguồn: http://manghoidap.vn/Xem-dia-the-nha-trong-do-thi-18406.html

Huyệt và Long mạch trong phong thủy?

HUYỆT
Huyệt là các điểm ngưng tụ năng lượng trên vỏ trái đất. Khoa học Phong Thủy phân định dương nguyệt (đối với nhà đất ) và âm nguyệt (đối với mộ táng). Huyệt của cuộc đất rộng hay hẹp tuỳ theo thế đất và địa khí tại đó.Việc tìm hiểu (Ðiểm Nguyệt) là tìm ra thế đất có án che phía trước (gọi là tiền án ) có Chẩm làm chổ dựa phía sau (gọi là hậu Chẩm )bên trái có tay Long và bên phải có tay Hổ tạo thành thế t Thanh Long- Hữu Bạch Hổ. Tay Long và tay Hổ khi cao là các núi, đồi khi thấp là gò bờ ruộng, mô đất ... có hình dạng như hai vành cong (khuỳnh tay ngai) được lồng vào nhau, che chở tương hổ cho nguyệt. tử vi
Long mạch
Mạch là chỉ lực âm dương vận động trong lòng đất. Do truyền thống văn hóa nông nghiệp Nam á coi trọng phương Ðông hơn phương Tây, mà Phương Ðông vốn mang vật biểu trưng là Rồng (Long), trong thế đất đặc thù cho hình dài, cho nên mạch đất đựơc gọi là Long mạch . Việc tìm mạch đất gọi là Tầm Long. bói toán
Long mạch có thể lớn hoặc nhỏ, có khi bao trùm cả một vùng lãnh thổ, có khi giới hạn trong một địa phương, một công trình. Trong phép tầm long, trước hết phải tìm tổ sơn, rồi theo long mạch tìm đến huyệt. xem diện mạo
Tìm hiểu thêm về phong thủy
nguồn: http://manghoidap.vn/Huyet-va-Long-mach-trong-phong-thuy-18407.html

Cách sắp xếp phòng theo phong thủy?

Cách sắp xếp phòng trong nhà thể hiên đuợc tính cách cư xử của gia chủ. Ngòai việc ảnh hưởng đến khí của họ, việc xếp đặt còn tạo ra các họat động mẫu mực và dần dà sai khiến cách dùng thời gian và suy nghĩ của họ. Khi phân tích cách sắp xếp phòng ốc trong nhà, các nhà phong thủy để ý rất nhiếu đến phòng ngủ của chủ nhà, nhà bếp và cửa ra vào chính hay cửa gara.
Vì chúng ta tiêu hết một phần ba phần của cuộc đời trong phòng ngủ vậy nó ảnh hưởng tới ta rất lớn. Cái bếp là cửa ngõ đem đến tiền bạc. Cửa chính là ấn tuợng đầu tiên của nhà và của khí vận. xem diện mạo
1-2. Phòng sách trong phòng khách và tiền sảnh là những phòng đáng kể nhất nằm gần cửa chính. Nếu chỗ đầu tiên ngườ ta nhìn thấy là phòng khách thì gia chủ cảm thấy nhẹ nhõm và tùy tiện. Nếu là phòng sách thì gia chủ nghiêng về phần làm bạn bè kiếm sống nhờ sách vở.
3. Nếu phòng đầu tiên là nhà bếp thì cả nhà đều hướng về thực phẩm. Cảnh bếp núc dễ khiến cho ngừơi ta muốn ăn uống, khuyến khích tiêu thụ quá nhiều thực phẩm. Trẻ em hay bị lôi cuốn nhất và phát phì. Chúng thường bị mắng về tật ham ăn, lười học. Thêm vào đó cửa chính gần nhà bếp cũng khiến khách khứa đến chỉ nghĩ đến ăn uống.
4. Nếu thấy phòng đầu tiên là phòng tắm thì sức khỏe và của cải chủ nhà hao tổn, tiền bạc sẽ trôi đi cả. Người nhà sẽ tốn thật nhiều thời giờ trong đó hoặc là vào đó thay đồ mới, ngắm nghía, rửa tay chân v.v...Khi đi đâu về họ sẽ cảm thây muốn vào phòng tắm trước khi cho khóa vào ổ.
5. Nếu khi vào thấy ngay phòng ngủ thì người nhà hễ cứ về đến nơi đã thấy cần nghỉ ngơi.
Cách chữa: Cho số 3 -5 : Treo một tấm gương ở mặt ngòai cánh cửa hay một màn che bằng vải kết hột hay là một cái khánh nếu nơi đó không có cửa ra vào. Phòng ngủ của gia truờng phải nằm sau trung tâm nhà. Một cách lý tuởng thì đặt sau đường phân đôi tâm nhà kể từ cửa ra vào để kiểm sóat tối đa vận mệnh của mình. Phòng ngủ càng gần cửa trước thì càng cảm thấy kém an bình. Nếu phòng đặt xa hằn vào trong thì cái giường bị xa cách với thế giới bên ngòai, thế nên giấc ngủ khá hơn và cũng an lành hơn. bói toán
Cách chữa: Treo gương sau đường kẻ ngang của tâm nhà đối diện phòng ngủ để tượng trưng đem phòng lui lại so với phần trước của căn nhà.
Phòng tắm và nhà bếp không được đặt trên đường ngang của tâm nhà vì e người nhà bị đau dọc theo cột sống lưng chay vòng ra bụng trước (trên mạch nhâm đốc): Nếu phòng tắm ở trung tâm nhà thì may mắn giảm dần và tiền bạc cạn theo.
Nhà bếp ở vị trí tâm nhà thì được và cần khóang đãng, rộng rãi nguời nhà sẽ nhờ đó tăng tiến được cuộc sống và nguồn tài chính. Nếu bếp hẹp và phía trên dàn lò nấu có đặt ăng-ten thì cái đó gây cho nguời nấu bếp hay kêu ca và tài lộc giảm dần trong nhà.
Cách chữa: Nếu bếp hẹp ta cho treo gương phía sau lò nấu để tuợng trưng tăng số bếp nấu và lượng đồ ăn (đồ ăn tượng trưng tiền của). Ta lại treo gương nhìn ra ngòai trên cửa nhà bếp để phản chiếu bếp cho cách xa trung tầm nhìn. Một chiếc khánh treo trên chỗ người nấu bếp.
Nếu phòng tắm đặt ngay trên đường trung tâm thì treo một tấm gương bằng với chiều cửa phòng tắm ở mặt ngoài. Vị trí những phòng liên hệ cũng ảnh hưởng cho gia chủ. Thí dụ nhà bếp phải nên đặt thật gần phòng ăn. Một phòng tắm chỗ nước (hay tiền) thóat ra là biểu hiện nguồn chi tiêu trong nhà, thế nên vị trí của nó trong nhà được coi là điều sinh tử.
sắp đặt phòng
Tránh đặt phòng tắm trên lầu cầu thang xuống phòng ngủ.
Cách chữa: Buộc một dải lụa đỏ từ trần hà ngay đưới phòng tắm dẫn dải lụa dọc theo vác tường gần nhất và đính nó xuống nền nhà ở dưới giường một cách chữa là dùng gương chiếu từ dưới lên trần. tử vi
Một phòng tắm không nên để ở cuối một hành lang dài vì nó dẫn khí như một mũi tên xuyên qua cửa phòng tắm làm cho người nhà hay mắc bệnh về hệ tiêu hóa hay hệ tuần hoàn.
Cách chữa: Treo một tấm màn, một chiếc khánh di động trong hành lang để tán khí.
Chỗ xấu nhất đặt phòng tắm là giữa nhà mà theo như Phong Thủy Tây Tạng thì nơi đó tượng trưng tòan thể vũ trụ - chỗ của Thai cực, trung ương cửa bát quái trong Kinh Dịch.
Cách chữa: Treo gương phủ khắp bốn vách trong tường nhà tắm.
Theo giới xây dựng phòng ốc cách xếp đồ đạc dẫn khí lưu chuyển trong nhà có thể làm tăng khí cho gia chủ để được may mắn. trong khi Phong thủy để ý đến các loại đồ đạc từ tiểu tiết rất chi li đến sổ sách nơi bàn giấy, bàn ăn, nơi đặt lò sưởi, giường ngủ là những cái tác động to lớn vào con người. sự sắp xếp trong nhà có thể quyết định cho người ta được thành công hay thất bại.
Tìm hiểu thêm về phong thủy
nguồn: http://manghoidap.vn/Cach-sap-xep-phong-theo-phong-thuy-18408.html

Phong thủy và dòng đời?

Phòng ngủ đặc biệt theo phong thủy được điều chỉnh theo tuổi tác một người. Vì nhà cửa ảnh hưởng đến khí lực con người nên có thể điều tiết phòng ngủ để làm cân bằng khí như cách chữa xuất thế cho trẻ con hay người già.
Trẻ con phải ngủ ở cung tử tức trong phòng ngủ của chúng, nơi đó cần giữ sáng sủa và khoảng trống rộng rãi làm chỗ chơi đùa. tử vi
Trẻ con chưa định hình được vì thế chúng cần có chỗ để vận động. Những lại đồ đạc kềnh càng đều là trở ngại và đặc biệt có thể nguy hiểm cho đứa trẻ, vừa là thứ làm em bé mất cân bằng khí của trẻ. Một món đồ nặng nề để gần cửa ra vào hay gầm giường ngủ có thể liên tục gây ra bong gân cho đến gãy xương.
Cách chữa: Để làm tăng khí cho trẻ, đặt vật gì màu trắng như tờ giấy, hoa trắng, thú nhồi bông v.v... trong cung trẻ thơ. Nếu giường không đủ chỗ đặt ở vị trí đó thì đặt đèn thay vào.
Khi trẻ được mười ba, mười bốn tuổi khí của trẻ không những bất định và kém phát triển mà còn lệch lạc nữa. bói toán
Cách chữa: Treo một đồ vật đồng đậy như khánh nhạc, con quay hay đèn ngang tầm mắt đứa trẻ để kích thích khí trong tâm chúng. Đưa luồng khí hướng lên làm cho đứa trẻ khôn ngoan, lanh lợi. Đồ vật màu mè và ang nuôi cá cảnh làm tăng khí cho trẻ.
Từ 15 đến 22 tuổi, tuổi này cần đước yên tĩnh và ổn định vì thế cần thêm đồ và phòng như sách vở, học cụ để hướng chúng vào sự học. xem diện mạo
Cách chữa: Cần để gương hay bàn học vào cung tri thức hay để vật gì có màu đen, xanh hay một trong chín cách chữa căn bản nào đó.
Trong khi nó còn đi học thì điều chỉnh vào vị trí tri thức. Một khi trẻ đã thi đậu thì tăng cường cho vị trí nghề nghiệp hay quí nhân phù giúp.
Tìm hiểu thêm về phong thủy
nguồn: http://manghoidap.vn/Phong-thuy-va-dong-doi-18409.html

Phong thủy vách xiên cho ngôi nhà?

Theo phong thủy thì vách xiên ở nơi đâu đền mang điềm bất hạnh và những tại họa khôn lường.
Vách xiên tạo ra góc tường thứ 5 khiến căn phòng có dư một góc và làm cho hình thù mất cân đối. Các vách xiên thường cấu tạo cần thiết do độ xiên của cầu thang tạo ra hay do hệt thống điều hòa không khí và kết luận là gió thiếu trong bát quái được bù đắp. xem diện mạo
Cách chữa: biến căn phòng này thành hình bát giác hay tạo một tấm gương lớn nơi vách xéo hoặc sáo treo trên đó để làm thông khí.
Kiến trúc có vách xiên suốt chiều ngang hoặc chiều dài làm có căn phòng bất ổn vì độ xiên như thế sẽ làm tổn thương hai cung.
Nhà số 1 thì kém hẳn về đường cong cái thanh danh và mất hạnh phúc trong hôn nhân. Ở phòng số 3 thanh danh và tài chính bị hao tổn. bói toán
Cách chữa:
1. Nhà có tường xiên ta giải quyết từ ngoài vườn là chiếu đèn từ bên ngoài làm cho nó có hình dáng vuông vắn.
2-3. Ở nhà chung cư ta treo gương lớn, càng lớn càng tốt, trên vách xiên chiếu đèn hay trồng tủ đựng quần áo vật dụng, cột nhà và phòng tắm hay làm căn phòng mất cân đối sẽ ảnh hưởng một phần trong Bát Quái. tử vi
Vị trí của phòng tắm trong nhà hay ảnh hưởng đến cung thân mệnh hay cơ thể của người ta. Thí dụ nếu phòng tắm nằm tại cung tài lộc thì chủ nhà phải hao tài.
Cách chữa: Treo gương bên gác đó để làm giảm gó chội ra hay treo khánh, thuỷ tinh cầu lên hai bên góc tường hay trồng dây nho cho leo trong góc đó để giải quyết cho cung này.
Tìm hiểu thêm về phong thủy
nguồn: http://manghoidap.vn/Phong-thuy-vach-xien-cho-ngoi-nha-18410.html

Độ xéo của ngôi nhà?

Xà, đại sảnh, tường hay cửa ra vào báo trước điều bất ngờ, những điều lạ hay tai hoạ xảy ra. Sự thay đổi thình lình này của công việc có thể kề cận với tai họa. làm việc dưới cầu thang xoáy ốc thì thường hư việc vì độ dốc xuống sẽ đem công viêc đi theo. tử vi
Cách chữa: Có vài cách chữa được đưa ra để lập lại quân bình theo ý thích cá nhân. Trong trường hợp xà hay trần ngiêng, treo 1 quả tua đỏ, màu đỏ, xà gỗ để làm đều độ nghiêng hay xây 1 xà nghiêng phụ. bói toán
Cửa ra vào ở bức tường nghiêng thì rất xấu và đặc biệt nếu nó đi vào phòng ngủ hay phòng tắm, người trong nhà sẽ là nạn nhân cho những bệnh tặt lạ lùng bất ngờ hay biến cố nào đó. để ngăn ngừa tai họa, treo lên một trại thủy tinh cầu trên một bên cửa ra vào cách khoảng gần 1 thước tây tính từ ngạch cửa đó. Phòng lớn bị xiên lệch ta treo ba trái cầu thủy tinh theo chiều dài của nó. xem diện mạo
Nếu cả 1 vách tường bị xiên lệch, nguồn khí sẽ bị dồn trong 1 góc nhỏ hơn 90 độ.
Cách chữa: Đặt 1 cây cảnh nơi góc xiên để giúp khí lưu chuyển.
Tìm hiểu thêm về phong thủy
nguồn: http://manghoidap.vn/Do-xeo-cua-ngoi-nha-18411.html

Phong thủy xà cho ngôi nhà?

Trong khi một số nhà Tây phương muốn để lộ xà ra để tạo phong cách thôn dã thì xà trong kiến trúc sư ở Trung hoa được xem là làm cản trở và có hại cho sự lưu chuyển khí cũng như không tạo may mắn cho chủ nhà vì bộ xà thường tạo ra sức ép cho bên dưới nó như chỗ làm việc, nơi ăn uống, ngủ nghỉ do đó nó ảnh hưởng vào sức khỏe và tư tưởng chủ nhà.xem diện mạo
Xà trong phòng ngủ có thể gây ra một số vấn đề tùy theo vị trí của nó. Thí dụ xà trên đầu giường có thể làm cho nhức đầu, đôi khi có cả buồn ôn, và ở vùng bụng có thể bị về bộ máy tiêu hóa, còn xà trên vùng chân thuờng làm trở ngại cho những động lực về di chuyển trong đời sống. Một nhà doanh nghiệp thấy mình ít đi lại hẳn sau khi nằm ngủ trên một cái giường mà phần chân thì ở bên dưới một cái xà. bói toán
Xà nằm trên lò sưởi hay khu vực phòng ăn thì chắc chắn làm hao tiền của đặc biệt cho vay sẽ không đòi được. Xà ở trên chỗ làm việc khiến cho đau yếu, bênh tật Nếu giường ngủ, bàn làm việc hay lò bếp không dời chỗ được bên dưới xà, thì các chữa là treo hai cái sáo tre, cột trên sáo hai mảnh lụa đỏ để tạo dáng hình bát quái với xà đó và giúp cho khí dễ vận chuyển bên dưới khu đó. Một phương cách khác là viền những dải lụa đỏ chạy dọc theo cái xà đó. tử vi
Xà ở một nơi như trong tiền sảnh có thể làm không khí không lưu thông đều cả nhà.
Cách chữa: Thiết trí đèn trần với ánh sáng chan hòa làm thành một trần giả, như thế không những nguồn khí thông suốt mà còn khiến cho khí của chủ nhà mạnh thêm.
Tìm hiểu thêm về phong thủy
nguồn: http://manghoidap.vn/Phong-thuy-xa-cho-ngoi-nha-18412.html

Nguồn gốc tử vi?

Vào thời nhà Tống, văn hóa Trung Hoa thời đó rất thịnh đạt về nhân học. Cũng nhiều triết gia, tâm học, đạo học chuyên nghiên cứu con người để tìm giải đáp cho cuộc sống, tìm quy tắc cho việc xử thế ngõ hầu mưu cầu hạnh phúc cho cá nhân và tập thể. Nền triết học thời Tống thời đó đã xuất hiện nhiều trường phái như Nông Gia, Pháp Gia, Âm Dương bên cạnh các học thuyết lớn như Nho Học, Đạo Học. Hầu hết các môn nhân vận chuyên khảo cứu con người và xã hội, cần thiết cho việc tu tâm, trị nước, xử thế . . .
Đứng về mặt bói toán mà xét, khoa Tử Vi xuất hiện tương đối chậm, vì đi sau khoa bói dịch, khoa nhân tướng, khoa độn giáp, khoa thiên văn . . . Nhưng Tử Vi đã khai mào cho một học thuật riêng, hệ thống hóa được ngành bói toán bằng lý số theo một khảo hướng đặc thù. Mặc dù vay mượn nơi sở học của người thời đại nền tảng triết lý Âm Dương Ngũ Hành, nhưng khoa Tử Vi vẫn giữ được nét đọc đáo nhờ ở một đường lối khảo sát khác lạ, có thể xem một cuộc cách mạng hoặc ít ra như một phát minh biệt lập trong phái học Tượng Số của thời đó, Thủy Tổ của Tử Vi học là một đạo sĩ biệt hiệu là Hi Di, tên thật là Trần Đoàn, sống vào thời nhà Tống (Trung Hoa) . tử vi
Đạo sĩ Trần Đoàn đã cố gắng bày ra cách xếp vận mệnh con người vào một lá số, ghi trên một mảnh giấy vỏn vẹn chỉ có một trang, nhưng tổng kê hết cá tính và đời người vào 12 cung và hơn 100 vì sao, được gán cho nhiều ý nghĩa và ngũ hành khác nhau, ngõ hầu giúp con người suy diễn những chi tiết về kiếp số của mình. Tóm tắt cuộc đời phức tạp của con người vào một mảnh giấy một cách hệ thống hóa, đồ biểu hóa một cách khúc chiết. Mặc dù công trình này không tránh được vài sơ khoáng cố hữu nhưng nó vẫn không mất đi giá trị khai sáng cho một bộ môn bói toán hãy còn được tôn sùng ngay trong thế kỷ khoa học không gian này.
Trong thập niên 1960 trở lại đây, Việt Nam ở hoàn cảnh chiến tranh, biến cố diễn ra liên miên. Hôm nay thế này, ngày mai bừng mắt dậy đã khác, nên khiến con người muốn tìm hiểu số mệnh mình bằng các khoa học huyền bí. Trong các khoa học huyền bí, thì khoa Tử-vi được coi là có nhiều tính chất khoa học, giải đoán được mọi sự kiện của cuộc đời và mở rộng. Bởi vậy khoa Tử-vi được nghiên cứu rất nhiều. Từ những người cao niên, học thức uyên thâm, tới những sinh viên học sinh, thi nhau tìm hiểu khoa này. Cho đến năm 1973-1975, một bán nguyệt san được xuất bản với tên khoa học huyền bí do ông Nguyễn Thanh Hoàng sáng lập và làm chủ nhiệm. Tạp chí này mang tên Khoa học huyền bí nhưng gần như là nơi quy tụ những kết quả của các nhà nghiên cứu Tử vi. Người yêu khoa Tử vi thì nhiều, mà sách vở ấn hành không được là bao. Tựu trung có các bộ sau đây :
- Tử-vi đẩu số tân biên của Vân-Điền Thái-Thứ Lang.
- Tử-vi áo bí của Hà-Lạc Dã Phu.
- Tử-vi Hàm-số của Nguyễn Phát Lộc.
- Tử-vi đẩu số toàn thư của La Hồng Tiên do Vũ Tài Lục dịch nhưng chỉ có một phần ngắn.
Trong bốn bộ sách Tử-vi trên thì từ tính chất các sao, đến cách an sao, giải đoán hầu như quá khác biệt nhau, khiến cho người nghiên cứu không biết đâu là phải, đâu là trái, đâu là sự thật mà đi theo. Thậm chí có sách đi vào những chi tiết thần kỳ chí quái, hoang đường trái hẳn với khoa Tử-vi nguyên thủy, đó là bộ Tử-vi Áo-bí của Hà-lạc Dã Phu. bói toán
Hiện (1977) khoa Tử-vi ở Việt-nam, bị coi là một khoa nhảm nhí bị cấm tuyệt, người coi Tử-vi bị kết tội ngang với những tội đại hình. Tuy nhiên trong dân chúng, vẫn nghiên cứu, và các thầy Tư-vi vẫn đông khách. Tại hải ngoại, người Việt lại tiếp tục nghiên cứu khoa này, số người nghiên cứu hầu như đông đảo hơn hồi 1975 về trước nữa.
Lý do, khi tiếp xúc với văn minh cơ giới Âu-Mỹ không giải quyết được lẽ huyền bí của con người với vũ trụ. Hơn nữa khoa Tử-vi nhiều tính chất khoa học hơn các khoa chiêm tinh khác. Lý do thứ ba khiến khoa Tử-vi được nhiều người nghiên cứu là, khi ra ngoại quốc, người Việt không ít thì nhiều đều tìm cách học thêm. Học nhiều thì kiến thức rộng. Kiến thức càng rộng thì việc nghiên cứu càng sâu rộng hơn. Một vài nơi như Pháp, Canada, Úc, Hoa-kỳ, họ đã thành lập những hội nghiên cứu Tử-vi, hơn nữa có nhiều bạn trẻ dùng vi tính lập lá số, giải đoán lá số; thực là một điều đáng khuyến khích. xem diện mạo
Tuy nhiên trong hoàn cảnh khó khăn hiện tại, lấy đâu ra sách vở tài liệu để họ nghiên cứu ? Sách vở căn bản không có, rất dễ dàng đi đến sai lạc, khiến cho khoa Tử-vi bị mất giá trị, mà mất luôn sự tin tưởng và mất luôn ngày giờ của người nghiên cứu.
Tìm hiểu thêm về tử vi

Nguồn gốc âm lịch và tử vi?

Hầu như dân ở các nước Việt, Hàn, Nhật, và Trungquốc nơi khai sinh ra khoa lịch số, đều biết nhiều hay nghe nói về Âm lịch, dù có đang dùng Dương lịch như một tiêu chuẩn chung cho cả thế giới hiện nay. Thích hay không thì ít nhất đa số cũng đều chấp nhận chuyện ăn mừng tết Nguyên Ðán theo truyền thống dựa vào Âm lịch. Bởi vậy nên phần đông các cuốn lịch in ra trong các nước nói trên đều có phần ghi chú thêm ngày "Ta" đi kèm. Riêng đối với người Việt thì hình như nhà nào cũng thích có cuốn lịch thuộc loại tam tông miếu để treo tường, ngay cả trong những gia đình sống ở hải ngọai. Mục đích chính không phải vì thích coi theo ngày ta, mà nguyên nhân có lẽ là do từ tôn giáo và tín ngưỡng, biết ngày nào rằm hay mùng một để ăn chay (theo Phật gíao). Chỉ có một thiểu số ít hơn là dùng âm lịch thường xuyên để nghiên cứu hay áp dụng vào các bộ môn khoa học huyền bí, như lấy số tử vi hay coi ngày lành tháng tốt cho chuyện làm đám cưới hỏi, khai trương công việc làm ăn v.v.
Hiện nay nghề làm lịch số của Trung Quốc không còn giữ được bí mật theo kiểu cha truyền con nối như xưa, vì nhờ vào phương tiện in ấn dồi dào từ sách vở ghi chép còn sót lại để nghiên cứu. Hơn nữa, Âm lịch cũng không còn thực dụng, vì hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đang chính thức dùng Dương lịch. Dù vậy, hậu quả của việc bảo vệ bí mật trong mấy ngàn năm trướcđây, cũng đã vô tình đánh mất đi cơ hội dành cho những thế hệ về sau này của Trung Quốc, nghiên cứu và tìm ra vận hành của Thái dương hệ, trước Âu châu ít nhất là vài trăm năm!
Nếu tình cờ mỗi năm một lần, chúng ta thấy xuất hiện một từ quen thuộc gọi theo tên âm lịch của năm đó, như năm nay 2002 là Nhâm-Ngọ, 2003 là Quý-Mùi, hay năm tới 2004 Giáp-Thân, thì dám chắc ai cũng đã ít nhất một lần thắc mắc, bằng cách nào và dựa vào đâu, các nhà lịch số Trung hoa phát minh ra những từ ngữ trên? Nói rõ hơn là mười (10) Thiên Can và mười hai (12) Ðịa Chi. Xin nhắc lại ở đây, 10 Can gồm: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Bài viết này sẽ dựa trên một vài dữ kiện kiểm chứng được của khoa học, để truy tìm lại phương pháp làm lịch mà các Chiêm tinh gia Trung hoa thời xưa có thể đã xử dụng. Bằng với tinh thần tôn trọng sự thật và học hỏi, người viết xin minh xác là những gì được trìnhbày sau đây có thể chưa được chính xác đúng hoàn tòan như đã xảy ra. Nhưng hy vọng sẽ là những ý tưởng khởi đầu, hay nếu có thể được, coi như là một đề nghị nghiên cứu thêm cho những vị có nhiều năng khiếu tự nhiên giỏi về các bộ môn Tử vi Lý số, để cùng làm sáng tỏ những gì đã bị hiểu nhầm là khoa học huyền bí.
Nội dung chính của bài viết này sẽ trình bày và giải thích tại sao, chỉ bằng mắt thường quan sát với phương tiện ghi chép còn thô sơ, các chiêm tinh gia Trung hoa đã tính được ra Thiên can, Ðịa chi và LụcTuần Hoa Gíap, hay khái niệm về vận hành 60 năm trong âm lịch. Phần cuối của bài viết sẽ giải thích một vài điều thắc mắc về những bí ẩn của khoa Tử vi Ðẩu số.
Nguồn gốc Lịch số
Âm lịch (lunar calendar) hay việc soạn thảo lịch số dựa vào vận hành của mặt trăng không phải bắt đầu từ Trung hoa như nhiều người lầm tưởng. Theo dữ kiện cóđược từ các nhà khảo cổ với bằng chứng rõ rệt, thì nền văn minh Sumerian, phát triển bên cạnh con sông Tigris cách đây hơn 6000 năm (khoảng từ năm 5000-4000 BC, để sau này thành trung tâm của xứ ngàn lẻ một đêm, hay ngày nay còn gọi là Baghdad, thủ đô của Iraq) đã biết làm lịch dựa vào vận hành của mặt trăng. Ðế quốc La mã ngay trong thời trước Julius Cesar ( 40 BC ) cũng dùng loại Âm lịch này. Chọn mặt trăng để làm lịch có thể bởi hai lý do: Dễ nhìn vì ánh trăng ban đêm không nóng gay gắt và khó nhìn như mặt trời ban ngày. Thay đổi hình dạng thường xuyên từ khuyết tới tròn dễ thấy hơn là mặt trời hầu như ít khi thay đổi. Tuy nhiên, còn một lý do khá quan trọng khác ít người nghĩ đến, là do yếu tố thiên nhiên. Xứ Ai cập (Egypt) nằm ngay trên đường Phân cực Hoàng đạo (Tropic of Cancer, khoảng 23°27 từ xích đạo) nên đa số nhiều người đã thấy được hiện tượng mặt trời chiếu thẳng trên đỉnh đầu. Nghĩa là trong khoảng từ 20 tháng 3 đến 20 tháng 9, nếu cắm một cái cọc thật thẳng đứng, sẽ thấy bóng của cây cọc nhập trùng ngay dưới gốc của nó vào lúc 12 giờ trưa, ít nhất là trong vài ngày (Chỉ những nước nằm giữa đường xíchđạo và Bắc bán cầu trong khoảng Vĩ tuyến từ 0 - 23°27 mới thấy được hiện tượng trên. Ngược lại, trong vùng Nam Bán cầu thì khoảng từ 20 tháng 9 đến 20 tháng 3). Nhờ quan sát hiện tượng đó, dân Ai cập cách đây khoảng hơn 4000 năm đã tính ra gần đúng số ngày trong năm (365 thay vì 355 như Âm lịch), và cũng chính là lý do họ chọn làm lịch theo mặt trời, lưu truyền Dương lịch cho đến bây giờ!   xem diện mạo
Các thủ đô của Trung hoa như Trường An hay Bắc kinh, vì nằm trong vùng ôn đới cách xa trên đường Phân cực (Tropic of Cancer) nên không thấy được hiện tượng nói trên, cũng như khôngcó ấn tượng nhiều về mặt trời, và cũng là lý do dể hiểu tại sao họ đã dùng mặt trăng để làm lịch.
Theo đúng như trong sử Trung hoa ghi lại thì khoa Lịch số đã có từ thời Hoàng Ðế, cách đây hơn 4000 năm, do các chiêm tinh gia soạn ra (nghĩa nguyên thuỷ là nhà thiên văn hay chuyên gia coi sao trên trời, không phải bị biến nghĩa ra thành "thầy bói toán" như về sau này!) chiêm tinh gia biên soạn lịch số để định chuẩn thời gian cho việc hành chánh và cai trị của triều đình Vua quan, nhưng đồng thời cũng giúp rất nhiều cho nghề nông trongviệc tiên đóan thời iết hay thu hoạch mùa màng. Chắc chắn trong giai đoạn đầu khi mới có cho đến khoảng sau thời Hán Cao tổ, âm lịch cũng không tránh khỏi nhiều sai lầm, nhất là rất đơn sơ và chưa có Thiên can hay Ðịa chi như sau này. Bằng chứng là trong thời kỳ phát triển của Chu Dịch (1150 - 500 BC) cũng chưa nghe nói đến. Phải đến thời "Tam Quốc" của Khổng Minh (Gia cát Lượng) vào khoảng 200-300 AD thì mới có văn tự rõ rệt nói về các Thiên Can, đồng thời xuất hiện các khoa lý số như Kỳ Môn Ðộn Giáp, Thái ất Thần toán, hay Lục Nhâm Ðại Ðộn v.v. Hầu hết các sử gia Trung quốc đều công nhận là chỉ vào thời kỳ của Nhà Hán, sau mấy trăm năm chiến tranh liên miên từ thời Ðông chu Liệt quốc, nền văn minh Trung hoa mới thật sự khởi sắc và đi lên trong Thiên niên kỷ đầu tiên (0 -1000 AD).
Theo chínhsử ghi lại, những nghiên cứu và phát minh của Trung hoa thật sự đã bắt đầu từ thời Tần thủy Hoàng, khi vị Hoàng đế tài giỏi nhưng tàn bạo này, có thể động viên hay chiêu dụ được nhiều đạo sĩ (coi như là khoa học gia theo tiêu chuẩn thời đó), trong việc thám hiểm, đi tìm kiếm các kỳ hoa dược thảo để luyện thuốc trường sinh bất tử cho ông. Dưới nhận xét bình thường thì cho rằng đó là việclàm xa xỉ, hoang tưởng và mê muội. Nhưng trong lãnh vực nghiên cứu khoa học ngày nay, Tần Thủy Hoàng rất xứng đáng được coi như đã có công sáng lập một cơ cấu kiểu Hàn lâm Viện khoa học đầu tiên cho nhân lọai! Những chi phí trong việc chiêu đãi hay thưởng công cho các đạo sĩ thời đó, dưới cái nhìn thiếu hiểu biết cho là phung phí, nhưng so với tỷ lệ ngân sách dành riêng cho khảo cứu khoa học ngày nay thì chẳng có nghĩa lý gìcả, dù là của một nước đang phát triển! Chính nhờ làm việc và sống chung tập thể với nhau đó, đã vô tình tạo ra môi trường tốt đẹp cho những sáng kiến mới, thi đua học hỏi, trao đổi kiến thức giữa các đạo sĩ với nhà vua, và có thể đã là cơ sở đóng góp cho nhiều phá minh quan trọng về khoa học và kỹ thuật sau này của Trung quốc. Hoá chất Lưu huỳnh dùng để làm thuốc súng, than đá, thủy ngân, chì, nam châm có từ tính, cách luyện thép, bàn ính (abacus), v.v. có thể đã được bắt đầu nghiên cứu hay tìm ra trong thờ kỳ này. Thí dụ về những huyền thoại phù phép mà Khổng Minh xử dụng, là do những phản ứng đặc biệt từ các hoá chất độc hại như lưu huỳnh, thuỷ ngân hay các loài dược thảo trộn chung với nhau khi bị đốt cháy. Kết qủa là làm cho đối phương bị gây mê, mất trí hay mạng vong trong những vùng gọi là bát qúai trận đồ. Nhưng một trong những thành quả tốt đẹp hơn hết chính là bộ môn xem thiên văn khí tượng bắt đầu xuất hiện được nhiều người biết đến. Nhờ vậy mà khoa lịch số đã được hiệu chỉnh, thay đổi đúng hơn cho tới bây giờ!   bói toán
Phươn gpháp soạn Âm lịch
Có thể chia ra làm hai giai đọan phát triển chính cho việc soạn thảo âm lịch.
Giai đoạn I: Kéo dài khoảng gần 2000 năm từ thời Hoàng đế cho đến thời Khổng tử. Trong giai đoạn này chỉ có ngày, tháng và năm. Chưa có chia ra giờ cũng như chưacó thiên can và địa chi. Công việc soạn lịch vào thời sơ khai này rất là dễ hiểu, không có gì phức tạp như nhiều người thường lầm tưởng. Những chiêm tinh gia thời đó chỉ dựa vào khoảng cách giữa hai tuần trăng tròn để tính số ngày cho một tháng. Khoảng cách của một năm thì được định bằng thời điểm vào lúc Trăng tròn nhất, khoảng ngày rằm tháng 8 (sau này thành ra tết Trungthu), và một phần dựa vào thời tiết thay đổi của 4 mùa.
Khó khăn duy nhất lúc ban đầu là cứ cách khoảng chừng hai năm thì tháng có trăng tròn nhất bị kéo dài thêm một tháng. Ðó là những tháng nhuận, và cách giả iquyết thực tế đơn giản lúcbấy giờ là thêm nguyên một tháng vào những năm nhuận. Còn làm sao họ biết được năm nào nhuận là do phỏngchừng và dựa vào kinh nghiệm riêng của những đời trước theo kiểu cha truyền con nối. Chính cách làm theo lối thuận tiện như trên, nên âm lịch thường bị thành kiến cho là thiếu chính xác! Có thể trong thời kỳ này, tháng nhuận chỉ được thêm vào trong tháng trước tháng có trăng tròn nhất là tết Trung thu(?) Chỉ sau này khi bắt đầu ăn mừng ngày tết Nguyên đán và để không bị sai ngày quá xa, nên những nhà soạn lịch phải chia ra cho đều, thêm tháng nhuận vào các tháng khác.
Ngoài ra có vài chi tiết cần được để ý là hệ thống Âm lịch dựa vào thiên can và địa chi chỉ có phân biệt tối đa là 60 năm, nên nếu muốn viết lịchsử, họ thường dùng năm cai trị của Vua hay triều đại làm chuẩn. Thí dụ như trong sách thường viết là năm thứ mấy đời Vua nào đó gặp thiên tai bão lụt v.v. Lâu dần trở thành thói quen dùng luôn cho đến khi bị ảnh hưởng của nền văn minh Tây phương thay đổi.
Về giờ giấc, lịch số ở thời kỳ đầu cũng chưa chia ra 12 giờ như sau này. Ðể định giờ, họ dùng cách nói phỏng phừng theo vị trí của mặt trời, mà mãi cho đến bây giờ, nông dân ít học ở các vùng quê vẫncòn dùng, như khi nói mặt trời vừa lên quá ngọncây (khoảng 8 đến 9 giờ sáng mùa hạ), hay mặt trời đứng bóng giữa trưa khoảng 12 giờ v.v.
Những gì vừa trình bày có thể kiểm chứng bằng bộ sách Chu dịch đã được soạn ra khoảng từ thời nhà Chu (1150 BC) cho đến thời Khổng tử (550 BC). Cụ thể là việc lập quẻ Dịch. Trong bộ Chu Dịch chính bản chỉ ghi cách lập quẻ duy nhất là dùng cỏ Thi, còn gọi là phép bói cỏ Thi, mà không dùng đến giờ nào như Khổng Minh dùng để bấm độn sau này. Các lời bàn của 64 quẻ trong bộ Chu Dịch nguyên thuỷ hoàn toàn không có nói rõ về giờ giấc.
Giai Ðoạn II: Từ thời Khổngtử cho tới nhà Ðường khoảng chừng 1000 năm. Thời kỳ này văn minh Trung Hoa bắt đầu khởi sắc đi lên. Các Ðạo sĩ hay Chiêm tinh gia làm việc có phương pháp và khoa học hơn. Nhờ vậy, họ đã tìm ra hay khám phá được chu kỳ vận chuyển của các hành tinh trong Thái Dương hệ, và từ đó âm lịch mới được thay đổi để thêm vào Thiên can, Ðịa chi, Lục tuần Hoa giáp (hay chu kỳ 60 năm). Trướckhi đi sâu vào chi tiết, và để quý đọc giả dễ theo dõi vấn đề hơn, người viết xin nhắc lại một vài dữ kiện căn bản như sau:
Trong những đêm tốt trời không mây, nếu dùng mắt thường chúng ta có thể đếm được cả vài trăm ngôi sao là chuyện thường. Tuy nhiên, tất cả đều thấy gần như cố định không thay đổi theo năm tháng, vì không phụ thuộc vào một hệ thống vệ tinh như Thái dương hệ, hoặ cgiả có chu kỳ di chuyển quá lớn đến cả ngàn vạn năm. Còn lại, trừ trường hợp đặc biệt như sao chổi (Comet) và sao băng (Asteroid), chúng ta chỉ thấy được những hành tinh thuộc Thái dương hệ dic huyển mà thôi. Trong tám (8) hành tinh chính, trừ mặt trời và mặt trăng, mắt thường của chúng ta chỉ thấy được có năm(5) hành tinh. Ðó là Thủy tinh(Mercury), Kim tinh(Venus), Hỏa tinh(Mars), Mộc tinh(Jupiter), và chót là Thổ tinh(Saturn). Ba(3) hành tinh không thấy được bằng mắt thường là Diêm vương tinh (Uranus), Hải vương tinh (Neptune) và Thiên vương tinh(Pluto). Không biết có phải là trùng hợp ngẫu nhiên của tạo hóa, hay sắp đặt khéo léo của con người, trong 8 quái (Bát quái hay 8 hành?) của Dịch lý, các "Khoa học gia" thời đó chỉ thấy được có 5 quái: Ðịa, Sơn, Thủy, Lôi, và Hỏa, nên phát minh ra Ngũ hành (Ngườ viết đã trình bày trong bài "Những khám phá mới về Dịch lý và Ngũ hành" cách đây hơn hai năm.) .
Ðể tìm hiểu về 5 hành tinh thấy được chuyển động như thế nào, các Chiêm tinh gia thời đó đã dùng một phương pháp đơn giản nhưng rất khoa học, là ghi chép lại vị trí của các hành tinh sau một thời khoảng nhất định. Thời điểm tốt nhất để xem thiên văn là mỗi tháng một lần vào cuối hay đầu tháng, lúc trăng hoàn toàn bị che mất (đêm 29, 30 hay 1). Muốn định rõ vị trí của cácsao, có lẽ họ cũng biết dùng theo phương pháp chấm tọa độ, nhưng kém chính xác rất nhiều. Dùng sao Bắc đẩu làm chuẩn và theo đồ hình Bát quái, họ có thể định phương vị (hay khẩu độ) của một sao, và kế đến là cũng theo lối ước chừng độ cao của mặt trời để định khoảng cách từ đường chân trời. Thí dụ như để định vị ngôi sao ở 220 độ từ hướng Bắc (theo chiều kim đồng hồ) và 25 độ cách chân trời nằm ngang, họ có thể nói là nằm ở giữa cung Khôn (hướng Tây-Nam) cách chân trời khoảng một gang tay chẳng hạn. Về sau để được chính xác hơn, có thể các chiêm tinh gia đã dùng đến các tên của quẻ dịch để phân chia thành 64 cung trên vòng tròn. Ðó chính là lý do tạisao các nhà nghiên cứu về sau cóthể hiểu lầm vì bị nạn "tam sao thất bổn", nên tưởng là môn lịch số có nguồn gốc từ Dịch lý mà ra.
Dù bằng cách nào thì cũng nhờ khái niệm tuần hoàn và chu kỳ âm dương của Dịch lý, chiêm tinh gia thời đó có thể tin chắc là các vì sao đều chuyển động theo một chu kỳ nhất định nào đó. Nếu không thì có lẽ họ không bỏ thì giờ quá lâu cho cả một đời người để tìm ra gần đúng chu kỳ của 5 hành tinh trong Thái dương hệ, trước Âu châu cả hơn ngàn năm!
Kết quả công trình nghiên cứu và ghi chép vị trí sao của các Chiêm tinh gia Trung hoa nói trên cho thấy là cứ mỗi 60 năm thì cả 5 hành tinh đều quay trở về lại gần vị trí cũ! Ðặc biệt hơn hết, là vào khoảng cuối năm Quý Hợi và đầu năm GiápTý thì cả 5 hành tinh đều hội tụ lại, và nằm sát với nhau chung một hướng. Xin nhắc lại đây để tránh hiểu nhầm, nhờ tìnhcờ ngẫu nhiên quan sát thấy hiện tượng 5 sao tụ hội về một chỗ trước khi phân tán ra, nên có thể các nhà lịch số cho rằng đó là khởi điểm đầu tiên cho chu kỳ 60 năm, và họ đặt tên cho năm có hiện tượng đó là GiápTý, đứng đầu trong bảng lục tuần hoa giáp.
Sau đây là bảng tóm lược số vòng chu kỳ quay quanh mặt trời của 5 hành tinh, dựa theo thời gian một (1) năm của trái đất làm chuẩn:
Thời gian tính theo Trái đất làm chuẩn Chu kỳ 1 vòng
lịch âm
Dựa vào bảng tính toán chu kỳ ở trên cho thấy có một vài chi tiết cần chú ý: Sau khoảng chừng 20 năm thì các sao tụ về tại một vị trí khác, và phải sau gần 60 năm của trái đất, thì cả bốn(4) sao Thủy tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, và Thổ tinh mới quay về gần đúng vị trí đầu tiên hay xê xích một chút. Khoảng cách sai số sau 60 năm là từ 10 đến 30 cung độ (arc), do các số lẻ thứ nhất của số chu kỳ trong 60 năm đều nằm trong giới hạn của 0 - 0.1 hay 0.9 - 1.0 theo vòng tròn (360 độ) của mặt trời. Ðối với người quan sát các hành tinh đứng từ vị trí trên trái đất và ở một gốc độ chéo, thì chắc sẽ nhìn thấy khoảng cách hay độ xê xích nhỏ hơn rất nhiều, hoặc có thể không thấy được độ sai biệt bằng mắt thường! Riêng trường hợp của Kim tinh (Venus) tuy nằm gần như đối diện với vị trí cũ (số lẻ 0.54), nhưng chu kỳ quay chung quanh mặt trời chỉ có chừng hơn 7 tháng, nên chỉ cần thêm khoảng 4 tháng (cũng còn trong 1 năm của trái đất) là quay vòng trở lại để hội tụ cùng các sao.
Như vậy, với một vài bằng chứng ở trên có thể tạm kết luận rằng: Chuyện các chiêm tinh gia Trung hoa cách đây hơn 1000 năm đã tìm ra chu kỳ gần đúng của 5 hành tinh là sự thật hiển nhiên rất dễ hiểu theo khoa học. Hình vẽ thứ hai sau đây cũng để minh chứng cụ thể cho thấy vị trí của 5 hành tinh vào tháng 2 năm 1984 (dương lịch, âm lịch là 30 tháng Chạp năm Quý Hợi, gần tết Nguyên đán) theo cách tính đúng qũy đạo chính xác của khoa học ngày nay.
Tuy nhiên cũng xin lưu ý và nhấn mạnh một lần nữa là do sự trùng hợp ngẫu nhiên đưa đến, không phải cứ 60 năm là các sao phải tụ về ở cùng một phương vị giống như vậy. Lý do là vì các sai số khoảng 0.06 cho Mộc tinh và 0.037 cho Thổ tinh như đã nói, nên phương vị của các sao tụ hội lại cũng thay đổi xê xích mộtchút sau khoảng 60 năm. Muốn các sao tụ hội về cùng phương vị gần giống như cũ phải mất khoảng 1600 năm, hay gần 27 lần của chu kỳ 60 năm! Nhưng dù vậy cũng chỉ gần đúng mà thôi. Nghĩa là trong thực tế không hề có sự trùng nhập lại giống y hệt như cũ được!
chu kì
Nhân đây cũng nên nhắc đến một sự kiện lịch sử có ảnh hưởng rất nhiều đến vận mệnh của cả nước Việt nam. Do bởi các vua chúa Trung hoa thời bấy giờ vì quá tin vào lập thuyết của các chiêm tinh gia, cho rằng một khi các tinh tú đều chầu về một phương nào thì nơi đó tụ hội được nhiều linh khí, nghĩa là có "Thánh nhân" hay bậc đế vương sinh ra đời! Bởi vậy nên tính ra trong khoảng 400 năm ( 400 - 800 AD) vào thời nhà Ðường, các Sao đều chầu về phương Nam (gần giống như hình vẽ trên), làm cho họ phải lo sợ. Từ nguyên nhân đó, mới có việc sai phái đạo sĩ Cao Biền làm Thái thú để tìm cách trấn yểm phương Nam. Ngoài ra sau này họ cũng thường gởi các "Gián điệp" giả dạng đội lốt tu sĩ hay thầy Ðịa lý và thầy thuốc bắc để dò tìm nhân tài của Việ nam. Một khi phát hiện được nơi nào có "thần đồng" hay thiếu niên giỏi chữ là họ tìm đến để thử tài và tìm hiểu. Nếu đúng thì bằng nhiều cách như dụ dỗ, mua chuộc nếu cha mẹ nghèo, xin cho làm con nuôi để "dạy dỗ và huấn luyện chữ nghĩa v.v. Ðó là lý do tại sao trong những câu chuyện kể về các vị thần đồng Nho học của Việt nam thời xưa, thường nói tới việc có những người "khách lạ" tìm đến để ra câu đối và thử tài thông minh!
Nếu những gì nói trên đúng theo thuyết của các chiêm tinh gia Trung hoa, thì trong số những đứa trẻ sinh năm 1984-85 ở Việt nam sẽ cho ra nhiều thiên tài xuấtchúng ngoại hạng trong tương lai (!?) Ðúng hay sai thì chưa biết, nhưng ứng nghiệm vào các quốc gia thuộc vùng Ðông nam A¨ thịnh vượng giầu có hơn trong vòng 20 năm qua, và dĩ nhiên kết qủa là sẽ cho ra nhiều trẻ em thần đồng nhờ được nuôi dưỡng huấn luyện và giáo dục trong môi trường tốt hơn!
Nói chung với cách tính phỏng chừng và đơn giản dựa vào ba sao là: Hỏa tinh (Mars) có chu kỳ gần 2 năm, Mộc tinh (Jupiter) có chu kỳ khoảng 12 năm, và Thổ tinh có chu kỳ gần 30 năm, các nhà làm Lịch số đã tìm ra mẫu số chung gần đúng là 60 năm để cả ba sao tụ hội lại gần nhau, và có cùng chung một cung, hay cùng phương vị theo bát quái (mỗi cung khoảng 45°.)   tử vi
Ðiều cần biết thêm ở đây chính là chu kỳ gần 2 năm của sao Hỏa (Mars), nghĩa là cách khoảng một năm thì các chiêm tinh gia thấy sao Hỏa nằm ở vị trí hướng đối ngược lại. Do hiện tượng trên trùng hợp với lý thuyết về Dịch hay luật âm dương, nên có thể các nhà lịch số tin rằng thời gian cũng giống như vậy là cứ một năm Dương một năm Âm thay đổi đều nhau!
Mộc tinh (Jupiter) là sao quan trọng nhất có chu kỳ gần đúng 12 năm. Quan trọng theo các nhà Lịch số thời bấy giờ có thể từ hai lý do. Thứ nhất, đó là sao duy nhất để phân biệt và chuẩn định sự khác biệt của các năm. Thổ tinh (Saturn) vì xa và khó thấy hơn, nhất là chu kỳ đầu tiên quá lâu và có tới gần 30 năm không chính xác bằng Mộc tinh. Riêng Hỏa tinh thì lại càng không chính xác vì chu kỳ quá ngắn chỉ có khoảng gần 2 năm. Thứ hai, dựa vào kinh nghiệm tích lũy từ quan sát và thực nghịêm của các chiêm tinh gia theo lối cha truyền con nối có thể đã kéo dài trong vài trăm năm, sau Mặt trời và Mặt trăng, Mộc tinh có ảnhh ưởng nhiều nhất đối với con người và Trái đất (sẽ giải thích thêm ở mục Tử Vi). Chính vì vậy, họ đã dùng chu kỳ 12 năm của Mộc tinh để đặt tên cho 12 năm, còn gọi là Thập nhị Ðịa chi. Dám chắc mới đầu chỉ có tên bằng con số 1, 2, 3, 4,...12. (Nếu để ý thì thấy các số lẻ 1, 3, 5...thuộc số Dương, số chẳn 2, 4, 6... là số Âm, phù hợp với Dịch lý đã nói ở trên). Còn tại sao sau này lại có tên của 12 con vật là Tý, Sửu, Dần...v.v, thì lại thuộc một vài lý do khác không nằm trong phạm vi bài viết này, nên xin miễn bàn ở đây. Nói chung, yếu tố quan trọng là nhờ vào quan sát thực nghịêm, một phương pháp thông dụng trong nghiên cứu khoa học.
Sau cùng, có lẽ các chiêm tinh gia cũng chỉ thấy có sao Thổ tinh là có chu kỳ lâu nhất trong 5 hành tinh, nên theo trình độ hiểu biết thời bấy giờ, họ cho rằng đó là vị thần chính của nhà Trời ảnh hưởng đến mọi sự sắp đặt và thay đổi của "Thượng đế", nên gọi là Thiên Can (?). Nhưng tại sao là 10 mà không là 5, vì 5 nhân 12 mới bằng 60? Hỏi vậy là xem thường khả năng về Toán của chiêm tinh gia! Nếu chỉ dùng 5 số Thiên can ghép với 12 Ðịa chi sẽ bị trở ngại ngay, nhất là không giải quyết được nguyên tắc Âm Dương, một năm Dương và một năm Âm đi liền với nhau như đã giải thích về chu kỳ của sao Hỏa ở trên. Ðể giải tỏa vấn nạn đó, các chiêm tinh gia buộc phải dùng gấp đôi con số 5 lên thành 10, tuy vẫn duy trì 5 đặc tính Ngũ hành của Thiên can. Bởi vậy cho nên bây giờ chúng ta mới có hai Can đi liền với nhau có cùng chung một Hành (theo thuyết Ngũ hành), và có một Dương và một Âm. Thí dụ như Giáp với Ất (hành Mộc), Bính với Ðinh (Hỏa), Mậu với Kỷ (Thổ), Canh với Tân (Kim) và Nhâm với Quý (Thủy).
Ngoài ra, do ảnh hưởng của thuyết Ngũ hành, việc đặt hay gọi tên 5 hành tinh theo Ngũ hành là hoàn tòan dựa vào màu sắc khi nhìn bằng mắt thường, và không có liên hệ gì với đặc tính vật lý. Theo lý thuyết của Ngũ hành về màu sắc, gọi là Mộc tinh vì có sắc xanh. Hỏa tinh vì có sắc đỏ như lửa. Thổ tinh vì có sắc vàng, Kim tinh (Venus) vì có sắc trắng do có độ sáng mạnh, và Thủy tinh (Mercury) có sắc đen vì quá gần mặt trời nên không thấy được sáng lắm!
Tóm lại hệ thống Âm lịch dựa vào các hành tinh chính sau: Mặt trời để định Giờ và Ngày, Mặt trăng dùng cho Tháng, Mộc tinh (Jupiter) dùng cho Năm hay 12 Ðịa chi, và sau cùng Thổ tinh (Saturn) và Hoả tinh (Mars) dùng để định Thiên can (Âm hoặc Dương) và Ðại Chu kỳ 60 năm hay LụcTuần Hoa Giáp. Ghi nhận thêm ở đây là theo âm lịch, mỗi tháng chia ra làm 3 tuần, có khoảng từ 9 đến 10 ngày, gồm: Thượng, Trung, và Hạ tuần. Về sau này thì các nhà soạn lịch tính và thêm vào các ngày đặc biệt như Ðại hàn, Tiểu hàn, Lập Đông, Hạ chí v.v
Những Bí ẩn của khoa Tử vi
Trong suốt hơn một ngàn năm, bộ môn Tử vi được coi như là khoa học huyền bí bởi tất cả các yếu tố an sao và giải đóan đều dựa theo một vài công thức định trước, mà không có sự giải thích hay chứng minh lý do tại sao. Dù tin hay không tin, thực tế cho thấy khoa tử vi cũng đã được lưu truyền trong dân chúng khá lâu, và ít nhất cũng đã có một số người chấp nhận, nghĩ rằng có thể dùng để đoán được phần nào vận mệnh tương lai của con người! Ðiều đáng ngạc nhiên là nếu đúng theo dữ kiện cho thấy, khoa Tử vi hiện tại này chỉ còn có Việt nam là đất dụng võ, dù có nguồn gốc từ Trung hoa. Ngay cả các sách viết về Tử vi ở TrungHoa cũng có nhiều, nhưng họ không thích xài Tử vi mà lại chọn các môn khác thông dụng hơn như Tử Bình (gọi tắt là Bát tự có 8 chữ, lấy số theo hàng Can và Chi của Năm, Tháng, Ngày và Giờ). Một lý do có thể giải thích là vì sau này họ đã khám phá và thấy được rằng, vận hành của các sao không được chính xác như đã tin tưởng lúc ban đầu!
Những gì được người viết phát hiện và trình bày sau đây cho thấy vài đặc tính khoa học của bộ môn Tử vi. Trần Ðoàn (được coi như ôngTổ sángchế ra Tử vi) hay các vị thầy tiền bối của ông vào khoảng thời nhà Ðường, có thể đã tiến xa hơn và biết khá nhiều về vận hành của các hành tinh. Nhưng tiếc rằng vì các điều kiện thực tế chủ quan về văn hóa xã hội thời bấygiờ, nên họ đã dấu kín và giữ kín bí mật tối đa, nhất là không muốn giải thích hay viết sách để lại lưu truyền cho hậu thế.
Cung An mệnh. Theo quan niệm về triết lý nhân sinh của Khổng giáo chịu ảnh hưởng ít nhiều đạo Lão, mỗi người sinh ra đều có một số phận được an bài trước gọi là thiên mệnh. Các nhà lý số hay tử vi gia Trung hoa dựa vào lý thuyết trên nên tin rằng, khi một đứa bé vừa sinh ra đời là chịu ảnh hưởng định đoạt cho số phận bởi các tinh tú hiện diện trên trời ngay thời điểm đó. Câu văn nổi tiếng thường nghe là "...sinh ra đời dưới một ngô isao..." phản ánh niềm tin trên. Nói cách khác, khi một đứa trẻ sinh ra đời tại một địa điểm nào trên trái đất, sẽ chịu ảnh hưởng của tất cả các tinh tú chiếu vào ngay tại thời điểm đó, và định đoạt số mệnh luôn cả đời cho đứa bé vừa sinh!
Không phải tự nhiên mà các Tử vi gia (TVG) bày đặt ra cách an mệnh trong Tử vi như sau: Khởi từ cung Dần (hay tháng Giêng) đếm theo chiều thuận (kim đồng hồ) đến tháng sinh, rồi từ đó lại đếm ngược cho tới giờ sinh để an cung mệnh. Dựa vào triết lý số phận cùng cách an cung mệnh cho thấy, các TVG thời đó đã khám phá ra được hai đặ ttính vận hành của trái đất và mặt trời, một đúng và một sai!
Thứ nhất, đúng là họ đã biết trái đất tự xoay vòng quanh lấy chính nó theo chiều ngược với kim đồng hồ! Trò chơi lồng đèn xoay (còn gọi là đèn kéo quân hay đèn cù) rất thịnh hành vào thời nhà Ðường, cho thấy các TVG lúc bấy giờ có thể đã có khái niệm về trái đất tròn và xoay. Nhưng như đã viết ở trên, họ đã giữ làm bí mật gia truyền, và nhất là sợ nguy hiểm cho chính bản thân và gia đình do quan niệm "Thiên cơ bất khả lậu" hoặc vì những người cầm quyền như Vua Chúa không tin (giống như trường hợp của Gallileo). Một lý do khác là ngay chính các TVG cũng không hiểu và không giải thích được hiện tượng tại sao con người không bị rơi ra ngoài nếu trái đất xoay tròn! Thêm vào, các hiện tượng thiên nhiên như nhật thực hay nguyệt thực, đã tạo cơ hội để các TVG hiểu ánh sáng từ mặt trăng là do từ ánh sáng mặt trời chiếu vào và thỉnh thoảng lại bị trái đất che (cho trường hợp nguyệt thực). Có thể với cách suy luận tầm thường và đơn giản theo lối chứng minh "phản đề" là: Nếu Trái đất nằm yên không xoay, thì dựa vào quan sát hàng ngày cho thấy mặt trời, mặt trăng, năm (5) hành tinh và đa số các tinh tú thấy được, phải "chạy" xung quanh trái đất mỗi ngày một lần! Ðiều này cho thấy hoàn tòan vô lý vì nhờ các hiện tượng nhật thực và nguyệt thực. Cụ thể như nhờ có hiện tượng nhật thực toàn phần giữa ban ngày, các TVG đã thấy được các ngôi sao và các hành tinh hiện ra, dù trong chốclát. Nghĩa là không phải vào ban ngày, các tinh tú chạy xuống dưới đất rồi đến tối mới hiện lên!
Thứ hai, các TVG đã hiểu sai khi khám phá ra và tin rằng mặt trời quay chung quanh trái đất mỗi năm một lần theo chiều thuận kim đồng hồ! Nhưng thật là may mắn cho khoa Tử vi, cái sai về lý thuyết lại trở thành đúng trên thựctế! Lý do là nhờ luật tương đối về chuyển động. Nghĩa là nếu các TVG đang đứng trên trái đất nhìn mặt trời, trong khi trá iđất di chuyển xung quanh mặt trời theo chiều ngược kim đồng hồ, thì cũng giống như các TVG đứng trên trái đất nằm yên, và nhìn mặt trời di chuyển xung quanh trái đất theo chiều thuận kim đồng hồ!.
Những bằng chứng trên cho thấy khi an cung mệnh, các TVG đã theo gần đúng nguyên tắc vận hành của trái đất và mặt trời, xác định vị trí tương đối lúc đứa bé sinh ra đời trong thái dương hệ. Tuy nhiên, xin được nhấn mạnh và giải thích rõ ở đây thêm một chút để tránh sự hiểu lầm. Ðúng ra, phần nào là do ảnh hưởng thể xác của người mẹ, do tính di truyền hay phù hợp với môi trường vào thời điểm đó, nên "chuyển bụng" mà sinh ra đứa bé, hơn là do cơ thể đứa bé sinh ra chịu ảnh hưởng của các hành tinh!
Vòng Tử vi và Thiên Phủ: Coi như quan trọng nhất cho lá số tử vi nên dựa vào tất cả bốn yếu tố là Năm, Tháng, Ngày và Giờ sinh. Nghĩa là chịu ảnh hưởng của Mặt trời, Mặt trăng và năm hành tinh. Theo nhận xét của người viết thì có thể sau khi định vị trí của đứa rẻ khi mới sinh ra đời dựa vào tháng và giờ, các TVG còn dựa vào hai yếu tố sau cùng là vị trí của các hành tinh hay thiên can, và vị trí của Mặt trăng hay ngày sinh. Nhưng làm sao họ biết sao Tử vi phải được an ở đâu dựa vào ngày sinh (?), và đây vẫn còn là một bí ẩn cần được nghiên cứu thêm. Câu trả lời tạm thời là có thể các TVG đã dựa vào quan sát thực nghiệm hình ạng và khuôn mặt của hàng trăm (hay vài ngàn) đứa trẻ trong một thời gian kéo dài cả mấy trăm năm. KhoaTướng số cũng cóthể nhờ đó mà phát sinh ra. Nên nhớ là ngày nay các nhà coi Tử vi chuyên nghiệp cũng cần phải dựa vào hình dạng hay tướng mạo để "điều chỉnh" và kiểm chứng lại trước khi bàn tới lá số của người nào.
Vòng Thái tuế: Trong số những người Việt nổi tiếng một thời nghiên cứu về khoa Tử vi, có thể TVG Thiên lương (bút hiệu) là người đã khám phá ra những yếu tố quan trọng đặc biệt nhất về vòng an sao Thái tuế. Vòng Thái tuế theo quan niệm của nhóm nghiên cứu TVG Thiên Lương, có ảnh hưởng nhiều đến thái độ sống và cách ứng xử của con người đối với xã hội. Tại sao vòng Thái tuế lại đóng một vai trò chính trong khoa Tử vi? Câu trả lời là vì đã dựa vào sao Mộc tinh (Jupiter). Các chiêm tinh gia từ xưa đã quan sát và biết chu kỳ đặc biệt duy nhất gần 12 năm của Mộc tinh trong Thái dương hệ. Nhưng yếu tố chính quan trọng ở đây là họ đã cảm nhận được ảnh hưởng của Mộc tinh đối với các sinh vật đang sống trên trái đất, nhất là con người theo từng năm (bởi vậy nên SaoThái tuế bao giờ cũng an theo năm sinh, nghĩa là sinh năm nào thì an Thái tuế ở ngay cung đó).
Theo dữ kiện khoa học tìm thấy được, Mộc tinh (Jupiter) hay saoThái tuế có hai đặc tính nổi bật nhất trong Thái dương hệ. Thứ nhất là Hành tinh lớn thứ hai chỉ nhỏ hơn Mặt trời, với đường bán kính trung bình khoảng chừng 70 ngàn cây số (km), gấp 11.2 lần Trái đất. Do đó, lực hấp dẫn (gravity) của Mộc tinh lên Trái đất rất là đáng kể (chỉ sau Mặt trăng quá gần với Trái đất). Thứ hai, và đây mới chính là điều đáng nói, ảnh hưởng từ trường của Mộc tinh mạnh nhiều hơn khoảng 10 lần của Trái đất. Yếu tố sóng từ trường như các phát hiện gần đây cho thấy, ảnh hưởng rất nhiều trên não bộ của con người nhất là cho các trẻ em! Thí dụ cụ thể là cách đây mấy năm, đã xảy ra hiện tượng một số các trẻ em Nhật bị ói mửa và bất tỉnh vì coi một chương trình truyền hình! Hay giới y học càng ngày càng có khuynh hướng tin và công nhận các loại sóng từ trường, từ các dụng cụ điện tử hay các đường dây điện cao thế, có thể gây nguy hại cho não bộ con người nếu hấp thu quá nhiều!
Trở lại chuyện tử vi, theo lý giải của phái TVG Thiên lương nếu người nào an mệnh tại cung có sao Tuế phá, xung chiếu với cung thiên di có sao Thái tuế, thì người đó thường hay bất mãn chống đối, sinh bất phùng thời, v.v. Ðể kiểm chứng hiện tượng trên, người viết chọn một lá số thí dụ để cho cung mệnh có được sao tuế phá: Người tuổi Canh-Thìn (1940), sinh tháng 9, giờ Tý, mệnh an ở cung tuất. Sauđó, dùng cách định vị trí của các hành tinh vào thời điểm nói trên, thì thấy rằng vị trí trên mặt đất vào giờ đó đối diện thẳng với sao Mộctinh, và ở vị trí gần nhất, theo hình vẽ sau:
tính lịch âm
Dựa vào hình vẽ trên cho thấy người sinh tháng 9 giờ Tý và người sinh tháng ba giờ Ngọ đều an mệnh tại cung Thìn và có cùng sao Tuế phá tại mệnh. Khác biệt duy nhất của hai trường hợp trên là chỉ có người sinh tháng 9 mới chịu ảnh hưởng hoàn toàn của Tuế phá, trong khi người sinh tháng 3 thì ngược lại không ảnh hưởng tí nào vì nhờ mặt trời che hoàn tòan! Một yếu tố có thể là do ảnh hưởng của sóng từ trường quá nhiều từ mộc tinh, nên não bộ của đứa bé lớn lên sẽ có khuynh hướng phát triển nhiều, thuộc loại thông minh hơn người, và thường đưa đến trường hợp chống đối những chuyện chướng tai gai mắt, nên dễ đưa đến bất mãn vì không hùa theo với người được (trường hợp của Cao Bá Quát trong lịch sử). Mặt khác có thể do thiếu giáo dục và hướng dẫn, dễ kết bè đảng với kẻ xấu (Kiếp, Không, Sát Phá Tham hãm địa) thành tay đạo tặc gian hùng v.v. Nên nhớ là những tay đạ otặc gian hùng có tiếng tăm phần đông đều thuộc loại thông minh hơn người rất nhiều!
Hai hành tinh gần mặt trời nhất cũng có thể làm cơ sở để an một số sao trong Tử vi. Kim tinh (Venus) có chu kỳ 0.61 và quay trở lại vị trí cũ (khoảng chừng 5 vòng) cho mỗi 3 năm tròn của trái đất, nên có một số sao trong Tử vi chỉ an theo ba (3) nhóm gồm: Thìn Tuất Sửu Mùi (Tứ mộ), hay Dần Thân Tỵ Hợi và Tý Ngọ Mão Dậu. Ðặcbiệt Thủy tinh (Mercury) quay quanh mặt trời quá mau, cứ mỗi ba tháng làm 1 vòng, trong khi trái đất cứ ba tháng lại di chuyển một phần tư (1/4) vòng chung quanh mặt trời, nên theo vị trí tương đối của người đứng quan sát từ mặt đất sẽ thấy như Thủy tinh chỉ di chuyển trong 4 vị trí chia đều trên vòng tròn (vì tầm nhìn quan sát bị gián đoạn không liên tục do vị trí của Thủy tinh quá gần mặt trời). Phải chăng vì vậy mà sao Thiên Mã và một số sao khác chỉ an trong 4 cung thuộc trong 3 nhóm trên(?)
Những gì vừa được trình bày cho thấy mặc dù khoaTử vi đẩu số không được hoàn hảo và còn nhiều nghi vấn theo tiêu chuẩn khoa học hiện đại, nhưng dám chắc rằng đó chính là biểu tượng cho tinh hoa của nền văn minh Ðông phương, một thời rạng rỡ đã qua trong thiên niên kỷ đầu tiên của nhân loại, và hy vọng sẽ có ngày trở lại trong vinh quang của thiên niên kỷ thứ ba này.
Tìm hiểu thêm về tử vi
nguồn:http://manghoidap.vn/Nguon-goc-am-lich-va-tu-vi-18336.html

Có nên tin vào số mệnh hay không?

Quan Điểm Của Đạo Phật Về Vấn Đề Này Như Thế Nào?
Con người có số mệnh hay không ? Có nên tin vào số mệnh hay không ? Thái độ của các triết gia và của các tôn giáo lớn đối với vấn đề số mệnh như thế nào, và đặc biệt là đạo Phật, một trong những tôn giáo lớn của thế giới và là tôn giáo lớn nhất, có số tín đồ đông nhất ở nước ta hiện nay, quan niệm vấn đề số mệnh như thế nào ? Đó là nội dung chủ yếu của bài này. Hy vọng qua đây có thể giải đáp được một vài bức xúc chủ yếu của đông đảo quần chúng hiện nay về vấn đề này.
Trong cuộc sống xã hội đầy bất trắc, và đặc biệt là trong thời gian chiến tranh có rất nhiều chuyện xảy ra, có thật không hư cấu, khiến người ta tin là có số mệnh. "Nhanh cũng chết, chậm cũng chết, may thì sống", đó là câu thường được nói tới trong suốt thời gian binh lửa , khi giữa cái chết và cái sống, khoảng cách chỉ là một tích tắc đồng hồ hay là một sợi gang sợi tóc. Trong một bối cảnh xã hội và đất nước đầy bất trắc, dầu sôi lửa bỏng đến như vậy, số người tin vào chuyện tướng số, bói toán, cầu đảo phải rất nhiều, và ngày càng nhiều.
Vậy có cơ sở đạo lý gì cho tất cả những chuyện này hay không ?
Con người là sinh vật có lý trí, đối với những tai họa lớn giáng vaò một đất nước, một vùng, một dân tộc, hay một cá nhân, nhât là những trường hợp đột tử xảy ra cho một người hay một số người… con người không thể tin đó là ngẫu nhiên mà tin là có sự tác động của những nguyên nhân sâu xa, có thể là siêu nhiên, mà trình độ hiểu biết hiện nay của con người không giải thích được.
Tôi có người bạn cũ là anh Vũ Thơ, một lần, anh tâm sự : Có chuyện xảy ra ngay trong tỉnh mà tôi phụ trách, khiến tôi nghi rằng có một cái gì đó không phải là vật chất đứng đằng sau những chuyện đó. Chuyện như sau :
"Tại một xã gần Quốc lộ số 1 nối liền Hà Nội với tỉnh lỵ Ninh Bình, có một cô gái xưa nay vẫn lười biếng, không hay đi làm. Thế mà một hôm, mặc dù trời mưa lớt phớt, cô lại ra đồng làm cỏ sớm hơn mọi người. Một chiếc ô tô con chạy nhanh trên đường quốc lộ, không hiểu sao trượt bánh, băng ngang qua đường rơi vào đúng chỗ cô gái đang làm cỏ, nhận cô ta xuống bùn chết liền. Tôi đích thân đến xem nơi xảy ra tai nạn. Từ chỗ cô gái làm cỏ đến vệ đường cũng phải đo được gần chục thước, chiếc ô tô phải chạy nhanh lắm mới có thể băng qua gần 10 mét được. Tại sao lại xảy ra chuyện như vậy nhỉ, một cô gái hằng ngày vẫn lười không đi làm, tại sao đúng hôm nay lại đi làm trước mọi người ngay trong khi trời đang mưa lớt phớt…"
Còn bao nhiêu chuyện nữa, cũng vô lý tương tự như chuyện cô gái làm cỏ, xảy ra trong và sau thời gian chién tranh của thập niên 60 và 70, làm mọi người dù là duy vật cũng phải tin vào số phận hay số mệnh.
Cơ quan thủy sản của Hải Phòng trước đây là một ngôi nhà bốn tầng, tôi đã từng đến thăm trong thời gian có chiến dịch máy bay Mỹ dội bom miền Bắc. Một quả bom xuyên đã rơi trúng cơ quan thủy sản, vì là quả bom xuyên, nên nó xuống tận hầm mới nổ, khiến cho những người nào nhanh chân chạy xuống hầm trước thì đều chết. Trái lại những người còn chậm chân ở tầng ba, tầng hai thì lại không can gì, mặc dù ai cũng đều hú vía.
Tôi có một anh bạn tên Sự, nguyên là Vụ trưởng Vụ Tài vụ của Bộ Công nghiệp nặng, khi Bộ này chưa tách thành nhiều Bộ anh có một cái hầm bê tông ở gần nhà, có thể nói là an toàn 100% để tránh máy bay. Không may cho anh bạn tôi là hôm ấy anh có xuống hầm khi máy bay đến, nhưng lại ngồi ở cửa không chịu vào sâu bên trong hầm như vợ và các con của anh. Máy bay Mỹ thả một quả bom tạ vào nhà máy điện Yên Phụ nhưng không trúng, bom nổ gây một chấn động dữ dội, anh Sự ngồi ở cửa hầm đầu đập vào thành bê tông, bị vỡ sọ chết ngay tức khắc. Anh đã chết ở nơi an toàn nhất, làm sao hiểu được ? xem diện mạo
Vì vậy mà ở miền Bắc, trong thời kỳ máy bay Mỹ ném bom dữ dội đã lưu hành câu nói ở cửa miệng nhiều người : "Nhanh cũng chết, chậm cũng chết, chỉ có may thì sống".
Cái may đó phải chăng là số mệnh hay số phận ? Các triết gia các tôn giáo cổ kim nhận thức vấn đề số mệnh và số phận như thế nào ?
I Các thuyết túc mệnh luận, định mệnh luận, thiên mệnh luận :
Nói chung, tất cả mọi thuyết dẫn tới thái độ yên phận và tiêu cực của con người đều thiếu giá trị nhân bản, dù chúng mang bất cứ nhãn hiệu nào.
Túc mệnh luận là thuyết cho rằng số phận con người là do quá khứ an bài, xếp đặt tất cả, mọi cố gắng hay nỗ lực của con người đều vô ích, như dân gian từng nói :
Con vua rồi lại làm vua,
Con sãi ở chùa lại quét lá đa…
Những người ở Trung Quốc xưa hay nói câu : "Nhất ẩm nhất trác, mặc phi tiền định", nghĩa là ăn một miếng, uống một chén, không gì là không do quá khứ quyết định trước. Có thể nói, đó là những người theo túc mệnh luận cực đoan.
Định mệnh luận cũng là túc mệnh luận, nhưng cường điệu tính chất bất khả kháng của số mệnh. Ý nói, số mệnh là quyết định, mọi cố gắng của con người đều vô ích.
Thiên mệnh luận có nhiều nghĩa, không phải nghĩa nào cũng sai. Nếu hiểu thiên mệnh là thiên đạo, tức là đạo Trời, là luật tắc tự nhiên, áp dụng vào thế giới của nhân sinh thì không có gì sai. Phải chăng, đó là ý tứ của Khổng tử trong Luận ngữ : "Ngô… ngũ thập nhi tri thiên mệnh" – "Ta… năm mươi tuổi thì biết mệnh Trời". Nếu hiểu mệnh Trời là số mệnh mà ông Trời quy định cho mình thì đó là số mệnh luận, hay đúng hơn là thiên mệnh luận, và tất nhiên là Phật giáo sẽ bác bỏ thuyết đó. Nhưng Tống Nho Chu Hy lại giải thiên mệnh như là "nguyên lý vận hành và biến hóa của tự nhiên", thì đây không phải là số mệnh luận. Nhưng vấn đề còn tùy thuộc ở phái Tống Nho hiểu luật tắc tự nhiên như thế nào.
Ở chương XVI cuốn "Đạo đức kinh", Lão Tử cũng nói "Phục mệnh", nhưng trong văn cảnh của chương này, thì mệnh ở đây rõ ràng chỉ có nghĩa là đạo, chứ không phải là số mệnh.
"Phù vật vân vân, các phục kỳ căn, quy căn viết tĩnh, thị vị phục mệnh" – "Muôn vật phồn thịnh, mỗi vật đều trở về cội gốc của mình , trở về cội gốc thì gọi là tĩnh, tức là trở về với mệnh".
Rõ ràng, Lão Tử dùng từ mệnh ở đây không phải với nghĩa số mệnh, mà với nghĩa đạo,tức là cội nguồn của trời đất, muôn vật.
Trong Thần hệ của Hy Lạp cổ đại có thần số mệnh gọi là Fate, mà cả đến Zeus, vị thần tối cao đứng đầu các vị thần, cũng phải e dè, nể sợ. Như vậy người Hy Lạp cổ đại tin rằng tất cả các vị thần, kể cả Zeus cũng phải phục tùng số mệnh.
Niềm tin ở số mệnh phổ biến như vậy, lan tràn như vậy, từ xưa tới nay, từ Tây sang Đông, thì phải chăng niềm tin đó có đạo lý của nó, cơ sở khoa học khách quan của nó ?
Người Pháp có câu : "L’homme propose, Dieu dispose" (Người kiến nghị nhưng Thượng đế bác đi).
Đây cũng là một biểu hiện rõ nét của thuyết mà Phật giáo thường gọi là Thần ý luận, khẳng định mọi sự việc diễn biến trong thế gian này đều do ý muốn của Thượng đế, và ý muốn đó là siêu việt, vượt trên tầm hiểu biết của con người, cho nên con người chỉ nên phục tùng, không những không được chống đối mà còn phải cảm tạ và tri ân Thượng đế.
Thiên mệnh luận cũng là số mệnh, nhưng số mệnh được nhân cách hóa thành Thượng đế hay là số mệnh do một nhân cách siêu nhiên an bài, xếp đặt. Cái nguy của thuyết này là một mặt khiến cho con người ta an phận thủ thường, mất hết ý chí phấn đấu, mặt khác lại khiến cho con người trốn tránh trách nhiệm của mình, thậm chí mình giết người, đoạt của, nhưng lại tự an ủi : đó là do Thượng đế muốn như vậy, đó là ý chí huyền nhiệm của Thượng đế.
Phật giáo tôn trọng tất cả các tôn giáo bạn, kể cả những tôn giáo công nhận có Thượng đế tạo thế. Đó là đường lối thủy chung như nhất của Phật giáo từ xưa đến nay, ở nước ta cũng như ở các nước Phật giáo khác. Tính bao dung về mặt tư tưởng vốn là một đặc tính của Phật giáo mà các nhà tôn giáo học trên thế giới đều công nhận, nhưng điều này không có nghĩa là Phật giáo chấp nhận, không phản đối một số quan điểm của những tôn giáo đó về vũ trụ và nhân sinh.
II. Một số tôn giáo và vấn đề số phận, hay số mệnh :
1.Tôn giáo Hy Lạp cổ đại :
Trong tư tưởng của Hy Lạp cổ đại, vấn đề số phận (fate) chiếm vị trí quan trọng và được biểu trưng bằng ba nữ thần ngồi dưới một gốc cây ở trung tâm trái đất và quyết định số phận của mỗi người. Vị nữ thần thứ nhất có tên Clotho, làm nhiệm vụ kéo sợi đan thành số phận cho mỗi người. Vị nữ thần thứ hai có tên là Lachesie làm nhiệm vụ phân phối số phận cho mỗi người. Vị nữ thần thứ ba có tên là Atropos, làm nhiệm vụ cắt đứt số phận của mỗi người, tức là quyết định người nào phải chết và chết lúc nào.
Tư tưởng số phận đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật kịch Hy Lạp cổ đại. Trong các bi kịch của Sophocle, thầy bói (Oracle) làm chức năng thông tin cho con người biết số phận của mình, như là một cái gì đã được quyết định trước rồi. Đặc biệt là hoàn cảnh chết của mỗi người là do số phận đã được quyết định như nội dung vở kịch Oedipe cho thấy.
Trên đây đã nói về tư tưởng số phận hay số mệnh trong tư tường Hy Lạp cổ đại, như trong các tác phẩm của Homer cho thấy, qua ba nữ thần số mệnh nói trên đây, tuy Homer thường dùng từ số phận hay số mệnh theo số ít, nhằm biểu trưng cho một sức mạnh siêu nhiên, siêu việt lên trên ý chí con người.
2. An Độ giáo và vấn đề số mệnh :
An Độ giáo như là tôn giáo thường nói tới một số thần linh như Vishnu, Siva, Kali có khả năng quyết định số phận của mỗi cá nhân tín đồ, thậm chí đôi khi ngược lại với hướng của nghiệp do cá nhân đó tạo ra.
Nhưng Aán Độ giáo còn nói tới hai yếu tố khác, cũng quyết định đời sống của con người là nghiệp (Karma) và thời. Yếu tố nghiệp cũng tương tự như khái niệm nghiệp của đạo Phật, nhưng không triệt để và nhất quán bằng đạo Phật. Vấn đề này sẽ được bàn kỹ trong phần "đạo Phật thay thuyết số mệnh bằng thuyết nghiệp".
Còn yếu tố thời của An Độ giáo cũng tương đương như yếu tố thời trong Dịch học của Trung Quốc vậy.
Nói chung, trong văn chương của An Độ giáo, cả ba yếu tố thần linh, nghiệp (Karma) và thời đều được nhắc tới. Thí dụ, trong cuốn thánh ca nổi tiếng "Bhagavad Gita", khi hoàng tử Arjuna do dự không muốn xung trận vì kẻ thù không ai khác mà chính đều là bà con, họ hàng thân thưộc, thì thần Krishna đóng vai trò người lái binh xa cho Arjuna, đã hiện nguyên hình và giảng giải cho Arjuna là phải xung trận, vì số phận của kẻ thù là bị tiêu diệt. Nội dung của tập thánh ca "Bhagavad Gita" cho thấy, chi phối sự diễn biến của tình hình là ý chí của thần Vishnu cộng với sức mạnh của nghiệp (karma).
Nói chung, phần lớn những người theo Aán Độ giáo đều tin những sự kiện chủ yếu của cuộc đời, như thân phận tái sanh, sức khỏe nói chung, người vợ tương lai hay chồng tương lai, số con và giới tính của con, thời điểm chết đều là những sự kiện được xác định trước bởi nghiệp (karma), hình thành từ trong đời sống quá khứ.
Một số tín đồ Aán Độ giáo tin rằng, sự cố hay là tác động của một thần linh, có thể đem lại cái chết đột tử cho một người nhất định, và trái lại, việc xuất gia, sống lánh ở một thánh địa rất có thể thay đổi số phận của một con người.
Ở Nam Aán, trong vùng cư trú của người Tamils người ta tin rằng số phận một con người đã được an bài sẵn khi mới sanh và được ghi trên trán bằng những dấu hiệu đặc biệt mà chỉ có những thầy xem tướng giỏi mới giải mã và biết được. bói toán
3. Do Thái giáo và vấn đề số mệnh:
Người Do Thái cổ đại tin là những sự kiện lớn của lịch sử dân tộc Do Thái đều do Thượng đế an bài sẵn, mà dân tộc Do Thái phải phục tùng. Quân đội ngoại quốc xâm lặng Israel, chiếm cứ Israel, đày biệt xứ dân Do Thái đi nơi khác, như là đế quốc Assiri, và Babylone và sau này đế quốc La Mã từng làm, tất cả những tai họa đó giáng xuống đầu dân Do Thái đều không phải ngẫu nhiên mà là do dân Do Thái đã không trung thành với liên minh mà tổ tiên họ là tiên tri Moise, đã thay mặt họ, ký kết với Yahve trên núi Sinai… Như vậy là số phận của một dân tộc Do Thái, do hai yếu tố quyết định : một là những việc làm của bản thân dân tộc đó, phản bội lại liên minh với Thượng đế. Yếu tố thứ hai là sự trừng phạt của Thượng đế để đối với dân tộc Do Thái. Đó là sự can thiệp của một lực lượng siêu nhiên, siêu việt lên ý chí của con người. Có thể nói, đây là số phận hay số mệnh của dân tộc Do Thái đã được Thượng đế Yahve lựa chọn để truyền bá chân lý của đạo Do Thái cho loài người.
4. Đạo Hồi và vấn đề số phận :
Từ Ả Rập maniyab là số phận hay số mệnh xuất hiện trong thơ ca Ả Rập ngay trước thời Mahomad. Con người có thể chết vì sự cố, trong chiến tranh hay là vì bệnh tật, nguyên nhân sâu xa của cái chết đó là do tiền định. Nhưng sức mạnh gì quyết định sự kiện cái chết của một con người ? Là Thượng đế Allah chăng hay là số phận, như là một sức mạnh không bị nhân cách hóa. Điều này không rõ trong văn chương Ả Rập, bởi lẽ không phải thi sỹ Ả Rập nào cũng tin đạo Hồi, vì đạo Hồi mãi tới thế kỷ VII sau dương lịch mới xuất hiện.
Thế nhưng trong phạm vi đạo Hồi, nhất là trong kinh Coran, thì mọi sự kiện, thậm chí mọi hoạt động trong đời sống của một tín đồ đạo Hồi đều do Thượng đế Allah an bài, chứ không phải do số phận hay là số mệnh. Ngày tận thế cũng do Thượng đế Allah quyết định, ý chí loài người không dự phần trong việc này.
Tuy nhiên các nhà Thần học Hồi giáo về sau có xu hướng giảm bớt tính tuyệt đối của sự can thiệp của Thượng đế vào đời sống con người, và dành một phạm vi nhất định cho hoạt động của ý chí tự do.
Hình như các tôn giáo thần quyền, ngày càng thiên về thuyết không phải Thượng đế an bài và quyết định tất cả, và con người dù là sản phẩm do Thượng đế tạo ra, nhưng vẫn có một phạm vi ý chí tự do nào đó, khiến nó có thể phạm sai lầm và chịu sự trừng phạt của Thượng đế, điển hình là nhân vật Adam của đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa, tuy do Thượng đế tạo ra nhưng vẫn ăn trái cấm, ngược với lời dạy của Thượng đế… Do đó mà phạm tội gốc, tức là nguyên tội.
Có thể nói, trong các thuyết của các tôn giaó lớn, chỉ có thuyết Karma (nghiệp) của Aán Độ giáo là tương đối gần gũi (chứ không phải đồng nhất) với thuyết nghiệp của Phật giáo. Tuy nhiên, cần nhớ rằng Phật giáo nói nghiệp, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh tính bất điïnh của nghiệp, nghiệp là có thể chuyển được. Người là chủ nhân đồng thời cũng là thừa tự của nghiệp (trung bộ
III, Kinh "Tiểu nghiệp phân biệt).
5. Dịch học và số mệnh :
Phật giáo có phản đối các chuyện như là xem tướng số, bói toán hay không ?
Xin trả lời rằng, vấn đề cơ bản của Phật giáo là giác ngộ và giải thoát, không phải là tướng số vá bói toán. Vì vậy mà trong kinh Di Giáo, ngay trước khi nhập Niết bàn, đưc Phật từng khuyên học trò mình là Tăng sĩ, không nên bói toán và xem tướng số. Trong năm môn học được giảng dạy ở các trường đại học Phật giáo trước đây ở Aán Độ không có môn tướng số và bói toán, tuy có dạy các môn thể học như là thanh minh (ngôn ngữ), Công xảo minh (tiểu thủ công nghệ), Y phương minh (chữa bệnh) Nhân minh (logic học)…
Về Dịch học Phật giáo cũng không phản đối dịch học như là một bộ môn Triết học của Trung Hoa, do các bậc thánh Trung Hoa thời xưa là Phục Hy, Văn Vương, Chu Công, và Khổng Tử sáng lập và hoàn chỉnh. Nhưng Dịch học, theo bản ý của các bậc thánh, đó không phải là môn học bói toán, mà là một môn triết học bàn về đạo lý thịnh suy, lành dữ, hạnh và bất hạnh của cá nhân và xã hội, đất nước ; và tinh thần của Dịch học là đức năng thắng số chứ không phải là con người phục tùng số mệnh. Tôi tuy không phải là người nghiên cứu chuyên môn về Dịch học, nhưng cũng có nghiên cứu qua sách dịch, không phải là để xem chơi như vua Trần Nhân Tôn nói trong chương I, bài phú Cư Trần lạc đạo (1) mà vì có giảng về triết phương Đông ở một số trường đại học và ở học viện Phật giáo. Tuy chỉ có biết đôi chút về Dịch học, nhưng với cái sở học của mình, cũng thấy được bản ý của các bậc Thánh lập ra môn Dịch học không phải là bói toán. Trái lại, bói toán chỉ làm dung tục hóa môn Dịch học mà thôi. học giả Trung Hoa Phó Lệ Pháp trong cuốn "Quốc học khái luận" (Đài bắc xuất bản, trang 40) viết rất đúng : "Bản ý của Văn Vương làm Chu Dịch là để dạy người cái đạo lý trị loạn, thịnh suy, được mất. Người đời sau dùng để bói toán, thực không phải là bản ý của Văn Vương" (2).
Hơn nữa, nếu chúng ta xem kỹ một số lời giải các quẻ của Văn Vương hay các lời giải các hào của Chu Công thì chúng ta sẽ thấy các bậc thánh này nhấn mạnh vai trò của đức, của nỗ lực đạo đức cá nhân hơn là số. Nghĩa là dù gặp phải cảnh ngộ khó khăn, gian khổ, nhưng nếu biết giữ đức hạnh, sống chính đáng thì dữ biến thành lành, hung biến thành cát. Rõ ràng, đó là quan điểm đức năng thắng số tuy các bậc Thánh không nói rõ như vậy.
Để minh họa, có thể dẫn chứng câu sau đây trong Văn Ngôn truyện một cuốn sách chủ yếu giaỉ thích hai quẻ Càn và Khôn : "Tích hiện chi gia tất hữu dư hương, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương…" Nghĩa là nhà tích chứa nhiều điều thiện thì sẽ có thừa điều lành, nhà tích chứa nhiều điều ác thì sẽ gặp nhiều chuyện dữ…
Gia đình như vậy, cá nhân cho tới đất nước, xã hội đều như vậy. Trị nước mà tàn bạo, hà hiếp, bóc lột dân quá đáng thì dân sẽ làm loạn. Cá nhân sống ác, thì gặp nhiều bất hạnh, nếu làm thiện thì sẽ gặp may mắn, đó là đạo Trời, là luật tắc tự nhiên. Dịch học tuy bàn chuyện hưng vong, thịnh suy và đắc thất nhưng cuối cùng vẫn khẳng định con người sống phải có đức, trị nước cũng phải có đức, thì mọi việc mới thông suốt, hài hòa (sách dịch dùng các từ hanh thông) chính đáng, bền vững (sách dịch dùng các từ lợi, trinh).
III. Phật giáo dùng thuyết nghiệp thay cho thuyết số mệnh :
1. Nghiệp là gì ?
Nghiệp là hành động có dụng tâm, hành động mà không có dụng tâm thì không phải là nghiệp theo đúng nghĩa của từ này. Một người lái xe không cẩn thận cán chết người. Người đó có thể mang tội ngộ sát, phải trả tiền bồi thường và ngồi tù. Nhưng thật ra, anh ta không có tạo nghiệp sát sinh, anh ta chỉ là một cái duyên, hay là một điều kiện trong kết cuộc như vậy. Lạnh lùng mà nói, tình hình đích thực là như thế, nếu chúng ta có một nhận thức sâu sắc về thuyết nghiệp.
Trong đời này, không có gì xảy ra một cách ngẫu nhiên hết, mọi sự việc, quá trình xảy ra đều có nhân duyên của nó. Có đủ nhân, đủ duyên và đúng thời, từ sự việc xảy ra tốt hay xấu, lành hay dữ, may mắn hay bất hạnh. Mọi sự việc xảy ra đều tương ứng với nhân duyên đã tạo ra nó từ trước. Và đây là nghiệp, chứ không phải là số mệnh.
2. Dẫn nghiệp và mãn nghiệp – hai loại nghiệp quan trọng nhất :
Nghiệp có nhiều loại nhưng Phật giáo thường chú ý hai loại chính là dẫn nghiệp và mãn nghiệp. Dẫn nghiệp là nghiệp dắt chúng sanh đi vào một trong sáu cõi, trong số này có ba cõi thiện là cõi loài Trời, cõi loài A Tu la và cõi loài người. Ba cõi ác là cõi súc sanh, cõi quỷ đói, và cõi địa ngục. Mắt trần chúng ta không thấy được loài Trời và loài A tu la. Chỉ biết rằng hai loài naỳ có quyền năng và thọ mạng nhiều hơn, dài hơn loài người rất nhiều. Mắt ta không thấy họ, nhưng không phải là họ không tồn tại. Dân gian không biết, gọi họ bằng đủ các thứ tên như thần, tiên, quỷ… Trong các loại chúng sanh sống ở cõi ác, có hai loại mắt người cũng không thấy được là chúng sanh trong loại quỷ đói và chúng sanh trong loài địa ngục. Loài quỷ đói là loài chúng sanh bụng rất to, nhưng cổ họng rất bé cho nên luôn luôn bị đói. Chúng sanh ở địa ngục thì bị khổ triền miên, khổ ở mức loài người không thể tưởng tượng nổi. Còn súc sanh thì rất nhiều loại, không thể kể xuể được, nhưng chúng có đặc tính chung là hay cấu xé lẫn nhau, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Loại súc sanh quen thuộc nhất là gia súc như chó, mèo, gà, lợn, ngựa, trâu. Chúng nó sống khổ thế nào, chúng ta cũng đều biết. Nhưng có điều nhiều người không biết là nếu không sống thiện, không tu tập và sống lối sống ngu si như súc vật thì sau khi chết chúng ta có thể tái sanh vào làm súc vật. Rất có khả năng đó, chúng ta không thể xem thường.
Cho nên, ít nhất chúng ta phải biết cơ chế vận hành của nghiệp, đặc biệt là loại nghiệp gọi là dẫn nghiệp. Mục đích là dùng cơ chế vận hành của nghiệp để cuộc sống chúng ta có ý nghĩa, để cho chúng ta chủ động tạo ra những nghiệp có cường độ mạnh để cho ở đời này, cũng như ở các đời sống sau, chúng ta không bị đọa vào các cõi ác, khổ, mà luôn tái sanh vào các cõi lành, cõi thiện, dẫn chúng ta đến mục đích cao nhất là giác ngộ và giải thoát.
Vì dẫn nghiệp quyết định hướng tái sanh, cho nên cũng có tên gọi là tái sanh nghiệp, với tiếng anh tương đương là Reproductive Kamma. Kamma là tiếng Pàli, nghĩa là nghiệp, còn tiếng Sanskrit tương đương là Karma, một từ mà sách Tây phương rất hay dùng để chỉ nghiệp.
Tái sanh nghiệp hay dẫn nghiệp là những hành động tạo nghiệp có cường độ mạnh hay thiện hoặc bất thiện, quyết định hướng tái sanh của một chúng sanh, cũng như những sự kiện chủ yếu ở đời sau của chúng sanh đó. Sau đây tôi xin đưa vài ví dụ minh hoạ trước hết những hành động tạo nghiệp cực ác, quyết định không tránh khỏi hướng tái sanh của một chúng sanh vào một trong ba cõi ác là địa ngục, quỷ đói và súc sanh. Đó là các hành động cố ý giết cha, mẹ, bậc thánh Ala hán,làm chảy máu Phật và phá sự hoà hợp của tăng chúng. Nếu phạm một trong năm nghiệp ác nói trên, thì nhất định phải tái sanh vào cõi sống ác, khổ. Năm trường hợp nói trên là những trường hợp cực đoan, còn nói chung sống buông thả, không giữ năm giới, không làm mười thiện thành thói quen, với tâm ác không biết sửa chữa đều có nguy cơ sanh vào một trong ba cõi ác là địa ngục, quỷ đói, và súc sanh, và dù có may mắn được tái sanh làm người thì sẽ là người sống bất hạnh như chết yểu, tật nguyền, hay ốm đau, bị người đời khinh rẻ…
3. Cường độ của nghiệp quyết định ở chỗ dụng tâm :
Yếu tố gì tạo ra cường độ mạnh của nghiệp, khiến cho nghiệp đó quyết định hướng tái sanh của chúng sanh đó. Chủ yếu là dụng tâm khi tạo nghiệp. Thí dụ tạo nghiệp sát với tâm tham, tâm sân. Gần đây báo chí đăng vụ giết người ở cửa hàng vàng Kim Sinh (Hà nội). Kẻ cướp đã giết bốn mạng người một lúc để cướp vàng, đó là ví dụ sát sanh vì lòng tham. Trên báo hằng ngày cũng từng đăng tin một cô gái, chỉ vì ghen tức đối với người con riêng của chồng mình – một cháu bé năm tuổi – đã nhẫn tâm quẳng cháu bé đó xuống sông Hồng. Sát sanh với tâm sân hận và ghen tức là loại nghiệp rất mạnh, có thể khiến kẻ phạm tội đọa vào cõi ác không tránh khỏi.
Đối với thiện nghiệp cũng vậy, cường độ của nghiệp thiện chủ yếu do ở chỗ dụng tâm chứ không phải do ở quy mô và hình thức của sự việc. Trong đạo Phật có câu : Làm việc đạo với cái tâm đời, tức là tâm danh lợi, thì việc đạo biến thành việc đời ; còn làm việc đời với tâm đạo, tức là cái tâm vì lợi ích của đạo và của chúng sanh, thì việc đời cũng biến thành việc đạo.
Quan điểm trên về nghiệp giải phóng những người nghèo hèn khỏi nỗi bức xúc của mình quá nghèo hèn, quá túng thiếu, muốn làm việc thiện, muốn giúp người nhưng không biết xoay xở thế nào.
Trong kinh 42 Chương có nói tới hạnh tùy hỷ bố thí. Đó là hạnh chia xẻ niềm vui với người khác. Nếu sự chia xẻ niềm vui đó là thật lòng, không chút ganh ghét thì công đức của hạnh bố thí tùy hỷ đó cũng là vô lượng, cũng như một ngọn đuốc có thể giúp cho bao nhiêu nhà được thắp sáng, nấu chín cơm, sưởi ấm v.v… mà để bố thí tùy hỷ có cần phải có gì đâu, mà chỉ cần có tấm lòng biết chia xẻ niềm vui của người khác mà thôi.
Đại sư Trung Hoa Trí Khải, trong bài tựa cuốn "Đồng mông chỉ quán" kể trường hợp một Sadi trẻ, ở cùng chùa một vị trụ trì đã chứng quả A la hán. Vị trụ trì chùa xem tướng học trò, biết trong vòng một tuần nữa học trò mình sẽ chết bệnh không thể tránh khỏi, bèn lẳng lặng cho học trò mình về thăm nhà. Anh học trò trên đường về nhà thấy một ổ kiến trên bờ đê đang bị một dòng nước xoáy thốc vào bờ đê, đe dọa cuốn trôi đi. Thầy Sadi trẻ động lòng thương lũ kiến đang nháo nhác, bèn nhảy xuống sông, ra sức hàn lại chỗ đê có thể bị vỡ để cứu ổ kiến. Cứu được ổ kiến, thầy Sadi về nhà. Và sau một tuần trở lại chùa, vị A la hán thấy học trò mình trở lại chùa an toàn, khí sắc lại còn hồng hào hơn xưa, rất lấy làm lạ, hỏi cặn kẽ đầu đuôi chuyện cứu ổ kiến. Vị trụ trì kết luận là do thầy Sadi phát tâm từ bi rộng lớn, cứu ổ kiến cho nên đã chuyển nghiệp, đáng lẽ phải chết trong vòng một tuần lại vẫn sống an toàn và còn tiếp tục sống thọ trong nhiều năm nữa. xem diện mạo
Câu chuyện trên cũng tương tự chuyện một bà già ăn mày, sống trong thời Phật ,muốn cúng dường Phật một ngọn đèn mà không đủ tiền để mua dầu. Đi ăn xin, ky cóp mãi mới được một đồng. Nhưng khi đến cửa hàng thì chủ tiệm lại nói một đồng không đủ để mua dầu thắp đèn. Nhưng vì chủ tiệm cảm lòng thành của bà già cho nên vẫn bán. Cuối cùng bà già cũng có được một ngọn đèn cúng dường Phật, không phải đặt trong tịnh xá nơi Phật thuyết pháp, mà chỉ được đặt ở ngoài vườn. Ấy thế mà sau buổi thuyết pháp của Phật, người ta đi dập tắt tất cả ngọn đèn ở trong nhà tịnh xá cũng như ngoài vườn, mọi ngọn đèn đều dập tắt dễ dàng, chỉ riêng ngọn đèn của bà già ăn mày cúng Phật thì người ta thổi mãi, dập mãi mà không làm sao tắt được, cả đến Ngài Mục Kiền Liên, học trò thần thông đệ nhất của Phật cũng bất lực. Được hỏi về sự kiện lạ lùng này, Phật nói đó là sức mạnh lớn lao của lòng chí thành cúng dường Phật của bà già. Với tâm thành lớn như vậy,thì dù là cúng dường một ngọn đèn nhỏ, cũng đem lại cho bà ấy công đức vô lượng, khiến cho chư Thiên cũng cảm ứng, che cho ngọn đèn không bị dập tắt.
Trong lịch sử truyền đạo của đức Phật cũng không hiếm những chuyện minh chứng cho khả năng chuyển nghiệp của những người tuy từng phạm nhiều tội ác trong quá khứ, nhưng sau khi được gặp Phật, được nghe pháp và thành thật ăn năn hối lỗi, cải tà quy chánh, một lòng tin đạo và hành đạo, thì ngay trong đời này cũng chứng được quả Thánh. Đó là trường hợp nổi tiếng của Angulimala, vốn là một tên cướp tàn bạo ở vương quốc Kosala, trường hợp của dâm nữ Ambanali ở Vaisali, cả hai đều xuất gia theo Phật, tu hành không bao lâu đều chứng quả Thánh A La Hán.
Tóm lại dụng tâm là yếu tố quyết định tính chất và cường độ của nghiệp. Dụng tâm trong kinh tạng Pàli còn gọi là tác ý, cho nên Phật giáo định nghĩa nghiệp là tác ý. Khi đã tác ý,theo hướng thiện hay ác, tức là ta đã tạo nghiệp thiện hay ác rồi. Người bình thường không hiểu cơ chế vận hành của nghiệp, cho nên rất hay xem thường, thậm chí ngay đối với lời nói,họ cũng nói một cách vô tâm : Lời nói bay đi, lời nói vô bằng ; không biết rằng ngay những ý nghĩ thoáng qua đầu chúng ta còn là nghiệp , huống hồ là lời nói. Có lẽ, vì để răn dạy người ta đừng nên coi thường sự bất thiện nơi lời nói là đạo Phật phân tích có tới bốn điều bất thiện nơi lời nói là nói dối, nói ác, nói chia rẽ, và nói vô nghĩa ; còn đối với sự bất thiện nơi thân thì có ba là sát sanh, lấy của không cho và tà dâm ; còn sự bất thiện nơi tâm cũng có ba là tham, sân, và si hay tà kiến.
4. Không được coi thường việc nhỏ :
Đức Phật luôn răn dạy con người không nên coi thường những nghiệp thiện hay ác dù là nhỏ, cũng như một đốm lửa nhỏ có thể đốt cháy đống rơm cao như núi, như giọt nước nhỏ mãi rồi cũng làm bình lớn đầy tràn.
Kinh Pháp Cú có các bài kệ :
"Chớ chê khinh điều thiện,
Cho rằng chưa đến mình,
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người chí chứa đầy thiện,
Do chất chứa dần dần"
(Kệ 122, HT. Thích Minh Châu dịch)
Lại viết :
"Chớ chê khinh điều ác,
Cho rằng chưa đến mình,
Như nước nhỏ từng giọt
Rồi bình cũng đầy tràn,
Người ngu chứa đầy ác,
Do chất chứa dần dần"
(121)
5. Lợi ích của việc tu tập tâm :
Tuy nhiên, cần chú ý là theo đạo Phật, dù là nghiệp nơi ý, nơi lời nói hay nơi thân, căn bản vẫn là ở chỗ dụng tâm, ở chỗ chúng ta tu tập tâm hàng ngày, khiến cho tâm ta trở thành thuần thiện, không nghĩ việc ác, chỉ nghĩ điều lành. Một người biết tu tập tâm như vậy, tuy rằng chưa đạt tới đích giác ngộ và giải thoát như các bậc Thánh, Phật hay A la hán, nhưng có thể nói là đã trên con đường thẳng dẫn tới đích giác ngộ và giải thoát tối hậu rồi. Hơn nữa, trên bước đường dài dẫn tới mục đích tối hậu đó, con ngườii thiện nhất định sẽ không bị đọa vào cõi ác.
Kinh Pháp Cú ví người như thế, như bàn tay không thương tích mà cầm thuốc độc vậy, không can gì hết :
Bàn tay không thương tích,
Có thể cầm thuốc độc…
(Kệ 124)
Người ác làm hại người hiền cũng như kẻ ngu ngược gió, mà tung buị, bụi chỉ rơi vào mình mà không dính người :
Hại người không ác tâm
Người thanh tịnh không uế,
Tội ác đến kẻ ngu
Như ngược gió tung bụi….
(Kệ 125, kinh đã dẫn ở trang 75)
Vậy nên, quyết định tính chất và cường độ của nghiệp là cái tâm của mình, là ở trong lòng mình, như thi hào Nguyễn Du đã viết : "Thiện căn bởi tại lòng ta". Tu Phật trước hết và chủ yếu là tu tâm, không phải chỉ vì "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" mà vì đức Phật cũng đã từng khuyến cáo chúng ta :
Kẻ thù hại kẻ thu,
Oan gia hại oan gia,
Không bằng tâm hướng tà,
Gây ác cho tự thân.
(Kệ 42)
và :
Điều mẹ cha, bà con
Không thể làm được,
Tâm hướng chánh làm được
Làm được tốt đẹp hơn.
(Kệ 43)
6. Vấn đề cộng nghiệp :
Nghiệp là sức mạnh lớn, khi nó là cộng nghiệp của một số người, vì không phải là một mà là một số đông người tạo ra nó, và số đông ấy có thể là cả loài người, cả một quốc gia, dân tộc hay một vùng, một địa phương.
Cộng nghiệp của cả một dân tộc đan xen với biệt nghiệp của từng cá nhân, khiến cho cơ chế vận hành của nghiệp khá phức tạp, mà chỉ có bậc Thánh như Phật mới hiểu được tất cả ngọn ngành chi tiết.
Trong kinh Chép lời Phật :"Với thiên nhãn thuần tịnh, vượt xa tầm nhìn loài người, Ta thấy các chúng sanh chết và tái sanh như thế nào, Ta thấy những người cao quý và kẻ nghèo hèn, kẻ xuất sắc và người bần tiện, mỗi người đều theo nghiệp của mình tạo ra mà có được thân phận hạnh phúc hay bất hạnh". (Chuyển dịch từ bản tiếng Anh "The Tibetan book of living and dying" của Sogyal Rinpoche, trang 92).
Chúng ta không có được thiên nhãn thanh tịnh để có thể được như Phật nắm bắt được tất cả cơ chế vận hành phức tạp của nghiệp, nhưng tối thiểu chúng ta cũng biết được đại khái, nhưng rất là đúng đắn, rằng : "Ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão". Đó là sự minh triết của nhân dân Việt Nam mà tổ tiên, cha ông đã tin theo đạo Phật gần 20 thế kỷ nay rồi, khiến cho một thuyết quan trọng và phức tạp như thuyết nghiệp ảnh hưởng đến tâm lý của dân ta đến nỗi, mỗi lần có sự cố bất hạnh xảy ra cho một người, một gia đình hay thậm chí cả một vùng, chúng ta buột mồm nói : "Tội nghiệp!". Đó là tội của nghiệp, nghiệp báo của từng người và là nghiệp báo chung, gọi là cộng nghiệp, nghiệp của số đông…
Nghiệp chính là quy luật nhân quả tác động trong phạm vi của nhân sinh. Đạo Phật nói quả nào nhân ấy. Một khi quả chín muồi và xảy ra thì chúng ta biết đó không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả hợp thành của những nhân duyên đã từng được tạo ra và nay chín muồi.
Nhưng đạo Phật không nói một cách máy móc : nhân nào quả ấy. Vì sao ? Vì hằng ngày chúng ta không ngừng tạo nghiệp bằng ý nghĩ, lời và thân hành động. Nghiệp này tiếp nối nghiệp kia, nghiệp sau tác động trở lại nghiệp trước v.v…
Chính vì vậy mà đạo Phật không nói số mệnh hay số phận , mà nói bất định nghiệp và chuyển nghiệp. Đó là ranh giới phân biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo khác, kể cả với Aán Độ giáo, khá gần gũi với Phật giáo, vì Aán Độ giáo cũng nói nghiệp Karma.
Dẫn nghiệp hay cũng gọi là năng sanh nghiệp chỉ là những loại nghiệp có cường độ mạnh, quyết định hướng tái sanh của một chúng sanh. Thí dụ tất cả chúng ta ở đây đều là người. Chúng ta biết chắc là trong đời trước, chúng ta đã tạo ra dẫn nghiệp (hay tái sanh nghiệp) khiến chúng ta có được thân phận người,nhưng giữa chúng ta đã có bao nhiêu sai biệt như già và trẻ, khỏe và yếu, nam và nữ, đẹp và xấu, và mỗi người đều là thành viên những gia đình khác nhau với những cảnh ngộ khác nhau. Do vậy mà ngoài dẫn nghiệp quyết định thân phận là người của chúng ta, chúng ta còn tạo ra một loại nghiệp nữa, có cường độ yếu hơn dẫn nghiệp mà sách Phật gọi là mãn nghiệp (sách tiếng anh dịch là Supportive Karma), cũng có sách khác dịch là năng trì nghiệp.
7. Khái niệm mãn nghiệp :
Mãn nghiệp hay năng trì nghiệp giải thích vì sao cũng là một thân phận người mà có người hạnh phúc, người bất hạnh, người sang, kẻ nghèo hèn ; người thì có uy tín nói ai cũng theo, trái lại có người nói rất giỏi nhưng không ai tin ; người đẹp, kẻ xấu xí, có cô gái đẹp lại lấy phải ông chồng xấu xí, lại có anh chồng xấu xí lại được người vợ đẹp sánh Hằng Nga tái thế v.v… sao lại có những chuyện như vậy ? tất cả những chuyện sai biệt như vậy, đều là quả báo của mãn nghiệp hay là năng trì nghiệp.
Một câu hỏi đặt ra là : loại mãn nghiệp này là bất khả kháng hay có thể chuyển được ? Xin trả lời, thuyết nghiệp của Phật giáo là bất định nghiệp là nghiệp có thể chuyển. Đã có bao nhiêu người sinh ra với sức khỏe rất yếu nhưng nhờ dày công luyện tập mà trở thành lực sĩ. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện chỉ có 1/3 lá phổi mà sống đến tuổi hơn 80. Triết gia Đức nói tiếng là Kant, vốn lúc bé rất ốm yếu nhưng nhờ sinh hoạt, làm việc rất đều đặn và có giờ giấc mà sống rất thọ v.v..
8. Khái niệm năng tiêu nghiệp :
Trong Phật giáo có khái niệm gọi là năng tiêu nghiệp, sách Anh ngữ có khi dịch là countereactive karma hay là impeding karma. Loại nghiệp này tùy thuộc vào tình hình mà có thể là tốt hay xấu.
Có thể đưa ra những ví dụ sau đây để minh họa : Một người sinh ra có tư chất thông minh, nói theo danh từ khoa học hiện nay là có gien thông minh. Nhưng người đó lại sinh ra trong một gia đình giàu có, được cha mẹ nuông chìu cho nên không chịu học hành, chỉ suốt ngày chơi bời khiến cho tính chất thông minh bẩm sinh của mình bị thui chột đi, và cuối cùng anh ta trở thành một gã bất tài, vô dụng ở đời. Những loại nghiệp anh ta đã tạo ra đều thuộc loại năng tiêu nghiệp, xâú và tiêu cực, hủy hoại bẩm sinh tính thông minh của anh. Bẩm tính thông minh đó cũng không phải ngẫu nhiên mà chính do anh ta nuôi dưỡng, hun đúc trong một đời trước.
Còn những ví dụ minh chứng các loại năng tiêu nghiệp tích cực thì rất nhiều. Chỉ cần dẫn chứng trường hợp của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện hay bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng là đủ, vì ai cũng biết đều là chuyện người thật việc thật và gần gũi với mọi người.
9. Dẫn nghiệp có thể chuyển được không ?
Có người thắc mắc, "mãn nghiệp có cường độ yếu nên có thể chuyển được, nhưng dẫn nghiệp có thể chuyển được không ?"
Xin trả lời rằng, dẫn nghiệp cũng có thể chuyển, trong những trường hợp như sau :
Đúng là sau khi đã sanh ra làm người, có thân phận người, thì không thể chuyển được thân phận người thành một thân phận không phải người. Thí dụ như các đạo gia mơ tưởng uống thuốc trường sanh bất lão và bất tử, trở thành thần, thành tiên ngay trong cõi thế này.
Tôi nghĩ rằng bàn những chuyện như thế này là vô ích, vì nếu có một người như Từ Thức chăng thì cũng chỉ là một người. Nên miễn bàn là hơn.
Nhưng đạo Phật có khái niệm "năng hủy nghiệp" để giải thích những trường hợp tuy có người thọ mạng vẫn còn, nghiệp lực của tái sanh nghiệp vẫn còn, nhưng vì những người này trong một đời sống trước hay thậm chí trong đời sống này có tạo ra những nghiệp cực mạnh,có khả năng tiêu hủy thân phận người của họ, thì họ vẫn có thể mất thân phận người như thường. Đó là những trường hợp chết đột tử hay bất đắc kỳ tử, như là trong các trường hợp chết vì thiên tai, chết vì tai nạn máy bay hay xe cộ. Người bình thường gọi đó là những trường hợp ngẫu nhiên bất hạnh, hay là số mệnh. Nhưng theo đạo Phật, đó là nghiệp, là tác động của một loại nghiệp gọi là năng hủy nghiệp, nó tiêu hủy thân phận người ngay khi người đó đang sống bình thường. Người đó, trong một đời sống quá khứ hay thậm chí ngay cả trong đời này, đã tạo ra một loại nghiệp có cường độ mạnh, đủ sức tiêu hủy một dẫn nghiệp được tạo ra trước đó, quyết định thân phận người. Sách Phật thường ví dụ tác động của loại nghiệp này như một cơn gió thổi tắt ngọn đèn, tuy rằng ngọn đèn đó có thừa dầu và bấc.
IV. Con người là chủ nhân của nghiệp :
Xin dẫn chứng lời của Đức Phật trong kinh "Tiểu nghiệp phân biệt" (Trung Bộ III) : "Người là chủ nhân của nghiệp, cũng là thừa tự của nghiệp…" Nghiệp do chính mình tạo ra và nghiệp trở lại chi phối mình. Cũng như Nguyễn Du nói rất đúng trong "Truyện Kiều"
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Xin đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Chính chúng ta chứ không phải một thần linh nào khác quyết định đời sống chúng ta, và chúng ta quyết định nó bằng hoạt động hàng ngày, hàng giờ, phút trong cuộc sống. Nếu tâm chúng ta hướng thiện thì chúng ta tạo nghiệp thiện, hưởng quả báo thiện trong đời này và đời sau. Quy luật nghiệp báo là quy luật nhân quả, giản dị, không có gì khó hiểu, không cần phải mượn tới sức mạnh của thần linh hay sức mạnh mù quáng của số phận để giải thích. Thuyết nghiệp của đạo Phật không những là khoa học và công bằng nó còn tôn vinh trách nhiệm và giá trị con người. Nó thúc đẩy con người luôn hoàn thiện mình, sống đạo đức, có lý trí và theo lẽ phải. Nó nâng cao giá trị con người chứ không hạ thấp giá trị con người. Nó khích lệ con người hành động và tiến bộ. Nó không dạy con người sống tiêu cực và yếm thế. Thuyết nghiệp của đạo Phật, nếu được lý giải đúng đắn và mọi người hiểu thấu và thực hành sẽ đem lại bao nhiêu tốt đẹp cho xã hội và đất nước chúng ta, trong thiên niên kỷ mới sắp đến này.
Quá khứ đã qua rồi, tương lai lại chưa đến, mọi người chúng ta hãy tỉnh giác và có ý thức sống trong hiện tại từng giờ, từng phút nghĩ lành, nói lành, làm thiện. Đó chính là nghiệp, là thuyết nghiệp không phải trên bình diện lý thuyết mà là trong cuộc sống, trong thực hành.
Triết gia Mỹ William James, chắc là có chịu ảnh hưởng của thuyết nghiệp của đạo Phật, đã nói câu :"Chúng ta đang dệt đời chúng ta bằng một sợi chỉ không tháo gỡ ra được " (Nous tissons notre vie d’un fil qui ne se défera pas).
Câu nói của Nguyễn Du và của William James sẽ hoàn toàn đúng với tinh thần thuyết nghiệp của đạo Phật, nếu thêm đôi điều như sau :
Tuy nghiệp đã mang vào thân rồi, nhưng vẫn gỡ ra được, nếu chúng ta biết ăn năn sửa chữa lỗi lầm, từ nay tránh mọi điều ác, làm mọi điều lành, giữ tâm ý luôn luôn trong sạch, hướng thiện. Với câu của William James, chúng ta cũng thêm, chúng ta dệt đời chúng ta với sợi chỉ, không phải không tháo gỡ được, mà vẫn có thể tháo gỡ và dệt lại được.
Và theo lời khuyên của hai vị, chúng ta hãy mang trên thân mình toàn là nghiệp lành, hãy dệt đời chúng ta toàn bằng nghiệp lành, nghiệp thiện, trong mỗi ý nghĩ, lời nói và việc làm hàng ngày. Và nhất định, hạnh phúc sẽ đến với chúng ta trong cả đời này và đời sau.
Source: Nguyệt san Giác Ngộ số 48 ---------------
* Chú thích :
Trần Nhân Tông viết :"Sách Dịch xem chơi, yêu tinh sáng, yêu hơn châu báu, kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rỗi, trọng nhữ hoàng kim". Trần Nhân Tông nói là xem chơi, nghĩa là Ngài không lấy sách dịch làm chuẩn.
Văn Vương tác Chu Dịch đích bản chỉ nãi giáo nhân dĩ trị loạn, thịnh suy, đắc thất chi lý, hậu thế dụng dĩ chiêm phệ, thực phi Văn Vương bản ý.
Tìm hiểu thêm về tử vi
nguồn: http://manghoidap.vn/Co-nen-tin-vao-so-menh-hay-khong-18337.html