Hằng năm vào ngày mồng tám tháng Tư, tại đình làng Gióng, tên chữ là làng Phù Ðổng, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh
có mở hội kỷ niệm đức Phù Ðổng Thiên Vương, tục gọi là Ðức Thánh Gióng,
rất linh đình và trang trọng.Hội đền Phù Ðổng Thiên Vương tục gọi là
hội Gióng rất vui với cuộc rước lịch sử, diễn lại trận đánh giặc Ân của
đức Thánh Gióng.
Hội đền Phù Ðổng
Thiên Vương là một hội rất lớn do bốn xã thuộc tổng Phù Ðổng cùng tổ
chức với sự tham gia của làng hội Xá, nên việc sửa soạn ngày hội cũng
rất cẩn trọng, nhất là sửa soạn cho cuộc diễn lại thần tích đức Thánh
Gióng phá giặc Ân.
Trong bốn xã này có hai xã Phù Ðồng và Phù Dực
được luân phiên cử chủ tọa đám hội. Hai xã Ðổng Xuyên và Ðổng Viên chỉ
đóng vai phụ tá trong đám hội và chỉ được đóng vai quân lính do thám.
Mỗi xã được chia làm nhiều giáp, mỗi giáp tựa như một ấp hiện nay.
Hàng
giáp phải cử lấy những người giữ các vai quan trọng trong cuộc diễn lại
trận diệt giặc Ân. Những người này là các ông Hiệu, hiệu Cờ trông nom
cờ lệnh, hiệu Chiêng điều khiển khiêng, hiệu Trống điều khiển trống. Còn
một ông Hiệu Trung Quân để phối hợp điều hòa sự tiến quân và hai ông
Hiệu Tiểu Cổ để đi tiên phong thám thính quân giặc.
Tất cả các
ông Hiệu đều phải kén trong đám thanh niên từ 12 đến 26 tuổi. Có thể là
những chàng trai đã lập gia đình rồi nhưng phải chay tịnh trong suốt
thời gian sửa soạn cho đến ngày hội. Quân được chọn trong dân đinh bốn
xã từ 18 đến 36 tuổi họp thành 10 cơ, mỗi cơ gồm một cơ trưởng và 15 cơ
binh. Kẻ địch là quân tướng nhà Ân được tượng trưng bằng 28 thiếu nữ
tuổi từ 10 đến 13 do hàng tổng cử ra để đóng vai 28 viên tướng giặc Ân,
ăn mặc sặc sỡ, đeo đồ trang sức lộng lẫy.
Cờ lệnh bằng lụa màu
lòng đỏ trứng gà, rộng ba tấc rưỡi và dài bảy vuông. Cờ do giáp chủ tọa
may, đây chính là cờ đức Thánh Gióng dùng trong ngày diễn trận. Mỗi năm
thay cờ lệnh một lần. Cờ năm trước, ông Hiệu cờ năm sau dùng để luyện
tập trước ngày diễn trận.
Ðể phân biệt với những lá cờ khác, trên
cờ sẽ có chữ "Lệnh" do một tay văn tự viết lên. Giáp chủ tọa trong mấy
ngày đầu tháng tư sẽ lựa một ngày tốt, mời một bậc đại khoa nếu có, bằng
không cũng phải mời một tay văn học tới viết chữ "Lệnh" này với sự
chứng kiến của tất cả các ông Giáp trưởng bốn xã trong hàng tổng.
Cuộc
diện trận đã được sửa soạn từ ngày mồng sáu tháng Tư. Ngay từ ba giờ
chiều hôm mồng sáu, dân làng đã cử hành một đám rước tới giếng trước đền
Mẫu, tức là Ðền Hạ, để lấy nước lau rửa tự khí dùng trong việc diễn
trận. Nước đựng vào hai chỏe sứ. Hai mươi bốn quân sĩ của Phù Ðổng Thiên
Vương sắp hàng hai theo bậc Giếng từ trên bờ tới mặt nước để lấy nước.
Người cơ binh đứng ở bậc Giếng cuối cùng, sát mặt nước, múc nước vào một
chiếc gáo đồng rồi chuyển cho người đứng cùng hàng với mình ở trước
mặt. Người này nhận gáo nước rồi lại chuyển cho người đứng trước mặt
mình bên bậc trên, đứng kế bên người vừa chuyển cho mình...
Cứ
lần lượt như vậy, gáo nước được chuyển theo đường chữ "CHI" cho tới
miệng Giếng đến tay người đứng bên chóe sứ. Ngườ i này đổ nước vào choé,
lọc qua một miếng vải điều theo hiệu lệnh Cơ trưởng. Cơ trưởng mặc áo
thụng xanh, đánh Kiểng để ra lệnh cho người cơ binh đổ nước vào choé. Tự
khí được rửa bằng nước đã lọc đựng trong choé sứ ở ngay sân đình.
Ngày
mồng bảy vào cuối giờ Tỵ, cờ lệnh được rước từ đền Mẫu đến đền Thượng
và buổi chiều vào lúc giờ Mùi, hàng tổng đi kiểm soát lộ trình từ đền
đến bãi trận. Có điều gì khiếm khuyết lập tức phải sửa chữa và bổ khuyết
ngay.
Vào giờ Tỵ ngày mồng Chín có lễ tế cờ tại đền, có cả mổ
trâu giết bò. Mọi người đều sẵn sàng để xuất trận. Mặt trận sơ sài, dưới
chân Ðê có một hồ sen, địch quân chiếm đóng nơi hồ. Quân Phù Ðổng Thiên
Vương tiến chiếm bờ hồ bên này, có một khoảng đất trống với nhiều mô
nhỏ. Có ba chiếc chiếu đã trải giữa những mô đấy này. Giữa mỗi chiếc
chiếu có một chiếc bát úp trên một tờ giấy: Chiếu tượng trưng cho cánh
đồng, Bát tượng trưng cho đồi núi, Tờ giấy cho mây.
Cờ lệnh đã
trương lên, ông Hiệu cờ tiếp lấy rồi tiến lên ba bước. Rồi ông đứng ở
giữa chiếc chiếu, hai chân chụm vào nhau. Ông nhảy lên hai lần, sau đó
ông quỳ gối bên phải xuống chiếu, bàn chân trái dẫm ra đằng trước như
hình chữ "Lệnh", hai tay ông phất cờ lệnh, xoay mình ba lần. Dân chúng
dự cuộc lúc đó mỗi lần ông xoay mình lại đếm theo. ông đứng lùi khỏi
chiếc chiếu. Lập tức mọi người nhảy xô tới cướp lấy xé chiếc chiếu. Họ
tin những mảnh chiếu mang may mắn cho họ, và những người hiếm con được
mảnh chiếu có thể thấy được tin mừng.
Khi chiếc chiếu thứ ba
được dân chúng xâu xé chia nhau hết quân giặc cũng tan, các tướng giặc
cũng rút lui hỗn loạn. Kiệu của các cô thiếu nữ được rước về làng Phù
Ðổng. Một tiệc khao quân lớn diễn ra ngay trước cửa đền. Trận tái chiến
diễn ra ở bãi Sòi Bia thuộc làng Phù Ðổng. ở đây cũng lại có ba chiếc
chiếu như ở Ðồng Ðàm. Ngày mùng mười tháng Tư, hàng tổng duyệt lại đạo
binh thắng trận. Các khí giới được kiểm soát. Hàng tổng lạilàm lễ trước
đền. Quân sĩ lại được khao thưởng. Thế là "thiên hạ Thái Bình". Sau ngày
diễn trận, hàng tổng lại tổ chức rước nước để rửa lại khí giới, đồ thờ
đã dùng trong việc chiến trận. Và có nhiều trò vui cho khách trẩy hội
thưởng thức: đánh vật, hát chèo và có cô đầu hát thờ.
Ðến dự hội,
người xem được chứng kiến nghi thức về một hệ thống lễ với các động tác
thuần tục, uy nghi mang tính nghệ thuật và biểu tượng cao. Ðến hội,
người ta có dịp cảm nhận được mối quan hệ hai chiều giữ a làng và nước,
giữa cá nhân và cộng đồng, quá khứ và hiện tại như hòa nhập với nhau vừa
thiêng liêng, vừa huyền ảo. Truyền thống yêu làng-yêu nước được giữ gìn
như một tài sản văn hóa.
Nguồn: http://manghoidap.vn/Hoi-lang-Phu-ong-Bac-Ninh-12566.html
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét