Lễ hội Thác Côn
còn được dân gian gọi là lễ hội Cúng Dừa, vì thức cúng chủ yếu trong lễ
hội này là hàng ngàn trái dừa tươi. Lễ hội diễn ra được tính theo Phật
lịch của người Khmer, nhưng thường tương ứng với rằm tháng Ba âm lịch.
Lễ hội được tổ chức tại An Trạch, thị trấn Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng.
Lễ hội
Thác Côn đã tồn tại gần trăm năm, gắn với truyền thuyết về chiếc Cồng
Vàng của vùng An Trạch xưa. Truyền thuyết ấy kể rằng: ngày xưa ở An
Trạch tự nhiên nổi lên một cái gò hình dạng như chiếc cồng. Chân người
dẫm lên phát ra âm vang như tiếng cồng. Được ít lâu, tiếng cồng trong gò
đất nhỏ dần rồi mất hẳn.
Nhân gian bèn lập một ngôi miếu thờ.
Hàng năm, dân làng An Trạch cùng nhau tổ chức lễ hội cầu an ở miếu này
và gọi đó là lễ hội Thác Côn. Trong tiếng Khmer, Thác Côn có nghĩa đạp
cồng, gợi lại sự tích về tiếng cồng chiêng vang lên từ đất. Lễ hội Thác
Côn có lệ cúng những chiếc bình bông làm bằng trái dừa. Nét độc đáo của
vật cúng khiến người ta còn gọi lễ này bằng cái tên lễ Cúng Dừa.
Lễ
hội Thác Côn cũng như lễ Cầu an, Cầu phước của đồng bào Khmer nên tính
chất nông nghiệp của nó thể hiện ngay trong các lễ vật dâng cúng là
những thứ hoa trái giàu sắc thái bản địa của cộng đồng các dân tộc ở
Đồng bằng sông Cửu Long như trầu cau, hoa sen và trái dừa. Các thứ hoa
trái tượng trưng cho sự thanh khiết và thiêng liêng ấy tập trung trên
một vật cúng hết sức đặc biệt mà đồng bào Khmer gọi là Slathođôn - bình
bông làm bằng trái dừa. Phần cây bông được tạo thành bởi những lá trầu
xanh và những bông hoa. Miếng trầu, lễ vật không thể thiếu trong các
nghi thức đám cưới, giỗ cúng tổ tiên của các dân tộc ở Đồng bằng sông
Cửu Long được cụm thành chiếc lá để trang trí cho Slathođôn.
Hoa
sen với ý nghĩa cao khiết, thánh thiện đã trở thành phổ biến trong văn
hóa dân gian, chiếm vị trí chủ đạo để làm nên hình tượng cây bông. Ngoài
ra, người ta đôi khi cũng trang hoàng thêm bông huệ, bông cúc vạn thọ
nhằm mục đích phối hợp màu sắc nhưng vẫn thống nhất về ý nghĩa Cúng Dừa.
Phần đế cắm hoa được làm bằng trái dừa, loại quả có nước tinh khiết,
ngọt lành chẳng những chiếm vị trí quan trọng trong văn hóa ẩm thực của
người Nam bộ, mà còn hiện diện trong hầu hết các lễ lộc, mang ý nghĩa
cầu phước, cầu an. Trên cái đế cắm độc đáo bày hoa lá, nhang đèn, sắp
xếp gọn ghẽ. Bình hoa Slathođôn giản dị, tiết kiệm và khá đẹp mang tính
tượng trưng rất cao là lễ vật chủ yếu trong lễ cúng.
Có đến hàng
chục giống dừa to nhỏ, màu sắc khác nhau thì cũng có đến hàng trăm kiểu
phối hợp để tạo nên vô số Slathođôn đủ cỡ, đủ màu. Vào dịp lễ hội này,
dân làng An Trạch, nhất là thanh niên nam nữ thu xếp việc nhà, sắm sửa
trang phục để trẩy hội cầu phước và đây cũng là dịp gặp gỡ bè bạn, người
thân. Theo lệ, người dân tự sửa soạn Slathođôn cho mình. Nhưng khách
phương xa mỗi năm một đông nên nhiều gia đình khéo tay đã trở thành đầu
mối cung ứng vật cúng cho các thiện nam, tín nữ. Tính ra mỗi kỳ lễ hội,
An Trạch phải nhập hàng vạn trái dừa. Người dự hội thường cầu phước cho
cả gia đình nên cũng sắm sửa luôn hương hoa, dầu gió, chỉ đỏ để lấy may,
lấy phước về nhà. Dân gian quan niệm, đi lễ hội, viếng danh lam thắng
cảnh là đem cái phước, cái lành về nhà. Người ta dâng cúng các vật phẩm
như dầu gió, chỉ đỏ, cả hạt giống lúa, bắp, rồi mang về phòng khi trở
trời trái gió có phương dược để khui phong; khi cưới xin có chỉ hồng
buộc tay cho con cháu lấy hên; khi vào vụ có hạt giống lành gieo trồng
để cầu cho mùa màng sung túc...
Nghi thức cúng dừa làm cho lễ hội
Thác Côn mang nét đặc trưng riêng với cảnh tượng ngoạn mục hiếm thấy ở
bất kỳ lễ hội nào. Tuy nhiên, nhìn từ sự tích đến thời điểm tổ chức, từ
lễ vật đến nghi thức cúng bái, Thác Côn là hình ảnh của một lễ cầu an,
làm phước theo truyền thống văn hóa của đồng bào Khmer ở Nam bộ trong
bối cảnh giao lưu về tập tục, tín ngưỡng của các dân tộc anh em trong
khu vực.
Trong mỗi kỳ lễ hội, vùng An Trạch đón hàng vạn lượt
khách từ khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long về dự lễ. Họ đến đây vừa
để trẩy hội vừa thành kính dâng hương khấn Phật cầu mong cho cuộc sống
được bình an. Khách từ phương xa có đến lễ Cúng Dừa vào buổi tối cũng
chẳng ngại lỡ độ đường, bởi đêm lễ hội Thác Côn là đêm thức trắng. Các
hoạt động văn hóa, văn nghệ, vui chơi, giải trí diễn ra náo nhiệt, quán
ăn, quán nước phục vụ tận sáng. Nam thanh, nữ tú của ba dân tộc có dịp
giao lưu, kết bạn, An Trạch chan hòa không khí nô nức của đêm hội trăng
rằm. Lễ Cúng Dừa kéo dài ba ngày, buổi chiều ngày thứ ba kết thúc lễ
hội, nhưng dư âm vẫn còn đọng lại trên những trái dừa chất đống cao như
núi trong sân miếu Thác Côn. Đó chính là lúc dân làng An Trạch thực hiện
nghi lễ cuối cùng, nghi lễ đậm tính chất nông nghiệp, bắt nguồn từ tín
ngưỡng cổ xưa mà những du khách ở phương xa ít có dịp chứng kiến. Nghi
lễ do các bà lão và các thiếu nữ trong làng tiến hành. Họ lấy những hạt
giống ngũ cốc đã được đặt trên bệ thờ suốt những ngày lễ hội, trước
những lời cầu mong chứa chan ước vọng của khách thập phương. Họ lấy một
ít tro, nhang từ các lư hương đầy ắp, cả những chân nhang cháy dở trong
ngôi miếu thiêng, đặt vào cái mâm bạc chuyên dùng đựng các vật cúng của
đồng bào Khmer. Những người phụ nữ An Trạch nối nhau đi ra đồng, đem
những vật phẩm từ miếu Thác Côn để dâng cúng đất đai, cúng hồn lúa, cúng
những vị thần bảo hộ cho ruộng vườn, làng mạc, tỏ lòng biết ơn mưa
thuận, gió hòa đã đem lại cuộc sống sung túc cho nhà nông. Với niềm tin
mộc mạc, thuần phác, những người phụ nữ làng An Trạch làm đúng những
nghi lễ mà các bậc tổ mẫu xưa đã thực hiện. Họ rải những hạt giống lấy
từ miếu Thác Côn lên các cánh đồng, rắc tro, nhang lên bờ ruộng để cầu
mong những hạt giống ấy, những tro, nhang ấy trả về một mùa màng bội
thu, cho cái chu kỳ bất tận của trời đất, nắng mưa luôn mang tới no ấm,
hạnh phúc cho mọi người, mọi gia đình.
Lễ hội Thác Côn của đồng
bào Khmer ở Sóc Trăng thể hiện ước vọng về sự an lành, hạnh phúc, cầu
mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, người người có được cuộc sống
an lành, giúp người ta nhớ về cội nguồn, tổ tiên, ông bà để sống chan
hòa và yêu thương nhau hơn.
Nguồn: http://manghoidap.vn/Hoi-Thac-Con-Soc-Trang-12749.html
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét