Lễ hội cầu an
cho bản mường (xên bản, xên mường) của người Thái, đặc biệt là người
Thái Mai Châu, Thuận Châu, Mộc Châu, người Mường... là một sinh hoạt văn
hóa tín ngưỡng rất quan trọng đối với cộng đồng người ở Tây Bắc. Lễ hội
thường được tổ chức vào cuối tháng giêng, đầu tháng hai âm lịch hàng
năm (dịp tết Nguyên Đán), gắn với tục giết trâu hiến sinh cầu và tạ thần
linh, được biểu hiện qua tiếng sấm, tức lời phán quyết của vua trời,
qua hình tượng thủy thần, thuồng luồng... Lễ hội có liên quan đến đời
sống vật chất, tinh thần, tâm linh của cả bản mường, đến mùa màng, sức
khỏe và sự làm ăn của cộng đồng năm ấy, nên được tổ chức rất trọng thể,
vui vẻ, thu hút sự tham gia của đồng bào ở địa vực lớn (bản, mường).
Lễ
hội này thường được tổ chức tại một bãi rộng, nơi có nguồn nước (mở
nước), nhiều khi là nguồn nước thiêng, hoặc ở cạnh rừng (bìa rừng) trong
hai hoặc ba ngày. Từ địa vực mà sự hiến sinh gắn với một biểu hiện của
thần linh hay bản thân thần linh (sấm, mưa, thuồng luồng, thổ công, thổ
địa...). Nhiều người cho biết, ở Mộc Châu, Hòa Bình,
lễ hội này được tiến hành ở đầu nguồn nước thuộc một bản được chọn
(thường là bản Mòn). Đây là nguồn nước thiêng, gần rừng thiêng, nơi cư
trú của thần thuồng luồng đầy uy lực. Ở người Thái Mai Châu, thì lễ hội
lại được tổ chức ở bãi rộng gần đình như các lễ hội ở châu thổ, đồng
bằng. Có nơi, người ta tổ chức lễ ở các miếu thờ thổ công, thổ địa của
bản, của gia đình, ở vườn và ở đầu ruộng.
Thường
thì ngay từ dịp tết Nguyên Đán, mọi thứ dùng cho lễ hội đã chuẩn bị
xong. Lễ hội thường kéo dài trong ba ngày (có nơi hai ngày một đêm, có
nơi một ngày một đêm). Nghi lễ cúng viếng cơ bản là hiến sinh trâu (nơi
là một cặp trâu đực to, trắng - đen, nơi thì một con, nhiều nơi cúng cả
gà, lợn). Ở Mộc Châu, trong lễ xên bản, xên mường, người ta hiến tế cặp
trâu đen - trắng cở từ mười tuổi trở lên. Hai trâu, nhưng trâu trắng mới
thực sự mang năng lượng thiêng để thành lễ vật tế thần (ở đây là thủy
quái thuồng luồng, con ma to nhất dưới nước mà bà con thường gọi là phi
ngược). Có lẽ nghi thức thờ, hiến sinh hai trâu là mới hơn nghi thức
hiến sinh một trâu mộng rất phổ biến. Bởi theo bà con cho biết, trước
kia, dân một mường khác phải đem trâu trắng và các đồ cúng lên cúng tại
bản Mòn này. Từ đó nảy sinh lễ cúng liên mường (xên liên mường) mà đồ
cúng và trâu hiến sinh tăng thêm về số lượng. Suy tưởng này, thực ra mới
chỉ là giả thiết.
Người chịu trách nhiệm chính trong tổ chức lễ hội cầu an bản mường
là a nha, nhưng người trực tiếp điều hành buổi lễ lại chính là ông thầy
cúng (mo mường). Dân chúng trong mường, ngoài bản, bất kể già trẻ gái
trai đều có nghĩa vụ tham gia, đóng góp tùy sức mình và được quyền tham
dự lễ hội của mường.
Nghi lễ giết trâu ở đây hết sức đơn giản,
không quan trọng và hệ thống như nghi lễ đâm trâu, ăn trâu ở Tây Nguyên.
Trước ngày hội chính thức, tức là khoảng 2-3 giờ chiều ngày hôm trước,
người ta đã làm lễ giết trâu. Trước khi thịt trâu, ông mo mường và ông
mò phăn (tức ông thầy chém, được dân mường chọn ra) làm lễ vái thần
linh, tổ tiên rồi cầm dao nhọn làm động tác chém dữ (mang tính nghi lễ)
vào cổ các con trâu dùng tế lễ, miệng thì thầm những câu như thần chú
(thực ra, nhiều người cho rằng các ông chỉ nói lời kính báo với thần
linh, tổ tiên: trâu tế thần đã sẵn, dân bản, dân mường đã thịt trâu dâng
các vị rồi đây nhé, xin các vị về mà nhận lấy). Sau đó, các ông lui ra,
dành chỗ cho các thanh niên khỏe mạnh vào chém trâu, thịt trâu...
Bắt
đầu ngày hội, người ta làm nhiều mâm cỗ cúng (mỗi mâm cỗ tượng trưng
cho một bản lớn, xưa, có tạo bản đứng đầu, các bản nhỏ không được tượng
trưng bằng mâm cỗ) đặt cạnh nguồn nước thiêng của mường. Đặc biệt, mâm
cỗ của ông a nha, đặt ở giữa, dùng cúng tổ tiên (mâm cúng chính thức)
phải đầy đủ các bộ phận của con trâu hiến tế (đầu, đùi, thân, móng,
đuôi...) cùng tất cả các bộ phận của một con lợn. Những mâm còn lại của
các bản, ngoài thịt trâu, cơm rượu... còn phải có gà vịt, đặt ở hai bên
mâm cúng chính, dành để cúng các vị thần khác. Khi buổi lễ bắt đầu, mo
mường quì trước các mâm cỗ, phía sau là a nha, tạo bản, dân mường quì
lễ. Trong không khí trang nghiêm, linh thiêng, ông mo trang trọng, xuất
thần đọc bài cúng đã thông thuộc, mời tổ tiên (ông cha bà cố nội ngoại
tiếng Thái là Pao pu pang cải), thần đất (Chau đỉn), chủ nguồn nước
(Chau nặm bo), thổ công thổ địa... về nhận lễ vật, dùng cỗ, vui vẻ với
cộng đồng dân cư bản mường; đồng thời cầu mong tổ tiên thần linh ban
phúc, phù trợ cho bản mường bình yên, làm ăn suôn sẻ, con người khỏe
mạnh, ngô lúa sinh sôi, gia súc gia cầm đàn đàn, lớp lớp. Khấn xong, mo
mường và các vị chức sắc cùng dân bản mường vái lạy tổ tiên và các vị
thần.
Trong
lúc đó, mo mường ném hai quả trứng (một đỏ, một trắng) và một nắm cơm
nhỏ xuống nguồn nước. Cuộc lễ kết thúc, mọi người bắt đầu vào cuộc ăn
uống cộng cảm, vui chơi thể thao, văn nghệ... Cuộc ăn uống cộng cảm diễn
ra hết sức vui nhưng đúng lễ nghi. Các ông mo mường, a nha, tạo bản...
ăn làm phép ở mâm cỗ chính, rồi đi từng mâm; ở mỗi mâm các ông ăn một
miếng thịt, uống một hớp rượu. Kế đó, cả bản mường ăn uống vui vẻ cho
bằng hết các mâm, không được bỏ thừa hay đem về. Để chuẩn bị cho việc
diễn ra những trò bách hý trong hội lễ, ngay từ sáng tinh mơ của ngày
đầu tiên, bên cạnh vị trí cúng lễ (mặt bằng, có thể là bàn đá cạnh nguồn
nước), người dân bản đã sửa sang, dọn dẹp một mặt bằng rộng, cách nơi
hành lễ khoảng trên dưới 100m. Mọi hoạt động hội hè, trò chơi, văn nghệ,
thể thao... đều được diễn ra nơi đây. Trời về chiều, trong tiếng trống,
tiếng chiêng dìu dặt lúc khoan lúc nhặt, dân làng tổ chức xòe vòng, xòe
đôi, xòe đơn thật hào hứng. Bên mâm rượu tập thể, những nam thanh nữ tú
hát giỏi múa hay, biết nhiều, nhanh nhẹn trong ứng đối vừa ăn uống,
chọc ghẹo, vừa hát đối đáp giao duyên. Họ hát giới thiệu, khen ngợi
nhau, bày tỏ chí hướng, tỏ lòng với nhau... trong men rượu, men tình...
Bên
cạnh đó, dăm bảy đôi nam nữ (thường là những đôi đã ngầm kết nhau, tổ
chức múa sạp, thi bắn nỏ, bắn súng hỏa mai. Nhiều nơi còn có tục đi săn
tập thể vào ngày kết thúc lễ hội. Dưới sự chỉ huy của một thợ săn giỏi
nhất mường, được dân bản bầu lên, mọi người lao mình vào cuộc săn một
cách hào hứng. Thú rừng săn được sẽ chia đều cho mọi người cũng như lũ
chó tham gia cuộc săn... Cứ như thế cuộc vui kéo dài trong hai, ba ngày.
Sau đó, bản nào về bản ấy. Bản nào giàu có, nhiều khả năng vật chất thì
mời mo mường, a nha về bản mình, tiếp tục mổ lợn, giết gà tiệc tùng vui
vẻ, hoặc tổ chức cầu an cho bản (xên bản).
Nguồn: http://manghoidap.vn/Le-hoi-cau-an-Bang-Muong-Hoa-Binh-12893.html
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét