Hàng năm cứ vào ngày 12/2 âm lịch, du khách các nơi lại trẩy hội Đền Bà Hải, tại cửa khẩu bến Kỳ La, huyện Kỳ Anh, để được thắp nén hương thơm thỉnh cầu đắc tài, đắc lộc.
Theo
sử sách, bà Nguyễn Thị Bích Châu quê xã Bảo Lộc, huyện Hải Hậu, tỉnh
Nam Định, là con gái đại thần Nguyễn Tướng Công, một ông quan rất mực
thanh liêm. Vì 40 tuổi mới sinh con nên gia đình Nguyễn Tướng Công rất
vui mừng, coi như bắt được ngọc, ngày đêm nâng niu cho đặt tên là Bích
Châu.
Từ nhỏ bà đã được cha mẹ chăm sóc dạy dỗ chu đáo về văn
chương đạo lý cung kiếm võ thuật toàn tài. Đến năm Long Khánh thứ nhất
(1373) nàng được vua Trần Duệ Tông tuyển làm cung phi.
Bấy giờ
chế độ phong kiến cuối thời Trần suy vong, chính sự đổ nát, nhân tài
không được trọng dụng, cung phi Nguyễn Thị Bích Châu bèn thảo bản sớ “Kê
minh thập sách” dâng lên vua nhằm chỉnh đốn chính sự. Sớ được dâng lên,
vua mừng quá đập tay vào phách mà nói: Không ngờ một người đàn bà thông
tuệ đến thế! Thật là một Từ Phi (vợ vua Đường Thái Tông ở Trung Quốc
thế kỷ VII).
Năm
1377, nhà vua đem quân đi đánh Chiêm Thành. Bích Châu làm tờ biểu can
ngăn nhưng vua không nghe nên nàng xin đi theo hộ giá. Khi quân nhà Trần
đến cửa biển Thị Nại (Bình Định) đóng quân thì được vua Chiêm là Chế
Bồng Nga cho sứ giả đem ngà ngọc, vàng bạc tới trực tiếp cho quan quân
ta để trá hàng, sau đó lại lập mưu tiến đánh vào lúc nửa đêm.
Quân
của Trần Duệ Tông bị tấn công bất ngờ, long thể nhà vua bất an. Bích
Châu cưỡi ngựa tả xung hữu đột cầm quân xung trận bị trúng tên độc. Khi
hồi quân về hội điểm an toàn vào rạng sáng ngày 11/2, bà ngã xuống bất
tỉnh, đến nửa đêm cùng ngày bà từ trần. Ba ngày sau vì bệnh tình quá
nặng, nhà vua cũng băng hà.
Quân ta rút về kinh đô. Khi tới địa điểm đầu Châu Hoan (Hà Tĩnh
ngày nay) vì sóng to, gió lớn, tàu thuyền phải ghé vào vũng Ô Tôn (nay
là Vũng Áng thuộc xã Kỳ Lợi, huyện Kỳ Anh). Quan quân làm lán trại ở
chân núi bên bờ biển rước linh cữu lên tế lễ. Sau đó linh cữu nhà vua
được rước về bằng đường bộ còn linh cữu của quý phi được chở về bằng
đường biển. Tàu thuyền tiến được 50 dặm trên biển thì bị gió Đông Bắc
tràn xuống phải ấn náu tại cửa biển Kỳ Hoa. Sau mấy ngày thời tiết vẫn
không thuận Triều đình xuống chiếu cho an táng quý phi Bích Châu tại cửa
khẩu bến Kỳ La, huyện Kỳ Hoa (nay là Kỳ Anh).
Năm 1470, vua Lê
Thánh Tông lại thân chinh ngự giá đi đánh Chiêm thành. Khi đến đây đồn
trú thấy đền thờ bèn hỏi các bô lão địa phương được các cụ cho xem bản
thần tích của đền. Nhà vua biết công trạng của Bích Châu liền cho bày đồ
tế lễ và đề lên bài vị 4 chữ “Nữ Trung Hào Kiệt” đồng thời xin Ngài phù
trợ “Kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công” . Khi thắng trận trở về, nhà
vua cho quân dừng lại nơi đây và sai người chặt gỗ, gọt đá xây dựng 3
toà điện thờ và sắc phong cho bà là “Chế Thắng Phu Nhân”.
Đền
Bích Châu được xây dựng trên bãi đất pha cát biển rộng khoảng 4.500m2,
quay về hướng Đông Nam, phía trước đền từ trái sang phải là núi Ô Tôn có
đền Eo Bạch được xây dựng cuối đời Trần còn gọi là cửa cá nổi tiếng
nhiều hải sản quý.
Toàn bộ công trình được bao bọc bằng cát bồi
lấp giống như một bức tường, ba toà là thượng điện, trung điện và hạ
điện. Năm 1991 ngôi đền đã được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận di tích
lịch sử văn hoá danh lam thắng cảnh. Trải qua 634 năm được người dân địa
phương tu bổ và ngôi đền nổi tiếng với sự linh thiêng nên hàng năm có
rất nhiều khách thập phương trong cả nước đến thăm viếng, cầu may.
Hàng
năm cứ đến ngày 12/2 âm lịch, Ban quản lý phối hợp với chính quyền địa
phương làm giỗ cho Thánh Mẫu và tổ chức nhiều trò chơi dân gian như đua
thuyền, kéo co…
Nguồn: http://manghoidap.vn/Le-hoi-Den-Ba-Hai-Ha-Tinh-12850.html
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét