Làng Dâu
còn gọi làng Mỹ Đôi, thuộc xã An Mỹ, huyện Bình Lục. tỉnh Hà Nam, nằm
trên địa bàn có bề dày lịch sử. Nơi đây, nhiều sự kiện chiến tranh tự vệ
của nhiều lịch đại đã diễn ra, nhưng đậm nét hơn cả, vẫn là sự tích ba
chị em ả Đào, Nguyễn Phương, Nguyễn Quế chỉ huy nghĩa binh đánh giặc
Minh đầu thế kỷ XV. Hàng năm hội làng mở vào ngày 15 tháng 2 thao diễn
quá trình đánh đồn giặc Minh để ghi nhớ công lao của 3 chi em đồng thời
ca ngợi tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam.
Tương truyền:
Thân phụ của chị em ả Đào từ vùng Tiên Lữ Hưng Yên, sang xã Bồ Xá Bình
Lục lấy vợ lẽ là Thị Hương và sinh được ả Đào, Nguyễn Phương, Nguyễn
Quế. Hồi đó giặc Minh xâm lược nước ta, sát hại sinh linh, cướp phá tài
sản, gây nhiều thảm cảnh ở Trang Cổ Thọ (nay thuộc xã An Mỹ).
Trước
những hành động bạo ngược của giặc Minh ngày ngày diễn ra, các bô lão
Cổ Thọ sang làng Bồ Xá cầu cứu viện binh đánh giặc. Nghe qua tình hình, ả
Đào bàn với hai em và dân làng tìm cách đánh giặc trừ hại cho dân.
Nghĩa
binh hai làng Bồ Xá, Cổ Thọ quyết định đánh úp căn cứ giặc Minh. Vào
lúc nửa đêm ngày 14 tháng 2, ả Đào chia quân làm ba đạo, phối kết hợp
với dân làng Cổ Thọ tập kích phá đồn giặc. Trước giờ xuất phát, nghĩa
quân lấy bánh dầy làm lương ăn, lấy mía thay nước và tuyệt đối không
dùng lửa. Trận tập kích phá đồn giặc thành công. Nhân dân cổ Thọ được
giải phóng, lấy lại sự thanh bình cho làng quê.
Lễ hội có hai phần:
-
Phần chuẩn bị được các Giáp thực hiện rất cẩn trọng. Các Giáp phải thi
nhau nuôi lợn béo và sạch, để lấy thịt cúng thành và diễn khai sự tích.
Phải chọn gạo làm bánh dầy, sao cho bánh trắng, ngon và dẻo. Thi nhau
trồng hoặc mua loại mía ngon, mềm và hoa quả vừa làm lễ vật vừa tượng
trưng cho lương thực, dùng trong chiến trận của các tưởng khi đánh giặc.
Những lễ vật này được hội đồng chấm thi cân nhắc, xét thưởng theo từng
loại nhất, nhi, ba.
Các Giáp còn có phận sự chặt cành cây, cắm
xung quanh khu miếu ờ phía đông nam bình Dâu, giả làm đồn binh của giặc,
đồng thời bố trí một số nơi giặc đóng trong xóm. Nhà nào được chọn là
vị trí đóng quân, thì người trong nhà phải chấp nhận đóng vai quân Minh,
đến đêm phải thắp đèn báo hiệu và khi quân của tiên chúa ả Đào đánh
đến, nằm lăn ra giả chết, mặc cho nghĩa quân khiêng vứt ra khe, rãnh
phía nam đình Dâu.
Trước khi vào hội làng
phải chuẩn bị nhân lực, bố trí làm ba cánh quân. Đặc biệt là tìm người
có phúc, có đủ phẩm hạnh đóng vai trò ả Đào tiên chúa và hai vị đại
vương Nguyễn Phương, Nguyễn Quế. Đồng thời phải chọn người múa rồng và
đóng vai Chử Đồng Tử tiên ông… Tóm lại, lệ làng Dâu về chuẩn bị khai
diễn sự tích phá đồn giặc Minh khá cụ thể, nếu các Giáp chuẩn bị thiếu
chu đáo sẽ ảnh hướng đến lễ hội, do đó mọi người, mọi nhà được phân công
phải lo lắng chuẩn bị, tập duyệt phần việc của mình một cách nghiêm
túc.
- Phần thao diễn sự tích được triển khai sau khi tế lễ, vào
giờ Tý đêm 14 rạng 15 tháng 2 âm lịch. Đến lúc này, mọi nơi (từ đình,
chùa đến nhà tư) thực hiện cấm lừa như lệ làng đã ghi: “Thử gian bài
binh, bất khả phát yên, duy thủ bạch viên binh, khiến sinh dĩ hường quân
sỹ" nghĩa là thời gian dùng binh không được phát lửa, dùng thịt lợn,
bánh dầy cho quân ăn. Truyền thuyết còn cho biết: Nước uống được thay
bằng mía.
Các đạo quân được bố trí tại ba hướng:
Đạo
phía Nam do Nguyễn Phương làm tướng, ’đạo phía Đông do Nguyễn Quế chỉ
huy, còn đạo phía Tây do chính ả Đào tiên chúa cầm linh phù làm tướng
soái. Cả ba đạo quân tiến từ ba phía về khu miếu có cành cây cắm xung
quanh, tượng trưng vị trí đóng quân của địch. Bên trong khu miếu “quân
xanh" được mặc áo, quần, thắt lưng như quân đội nhà Minh, từng tốp, từng
tốp nằm, ngồi vạ vĩnh bên các bình rượu. Khi 9 hồi chiêng trống vang
lên thì cả ba đạo giáp công, giao chiến một ngày, một đêm thì quân giặc
đại bại bỏ đồn chạy trốn. Sau đó ba đạo quân chia nhau tấn công các căn
cứ nhỏ đóng trong làng. Gia đình bố trí làm nơi quân Minh đóng thì châm
đèn báo hiệu. Nghĩa quân ào ạt tấn công, tiêu diệt lần lượt các vị trí,
rồi khiêng "xác giặc" ra khe phía nam làng Dâu, vứt xuống để giải quyết
hậu quả. Sau đó đoàn quân kéo về đình tụ hội.
Trước
sân đình, bỗng xuất hiện con rồng vàng, trên lưng rồng có tiên ông Chử
Đồng Tử, tay cầm quạt vẫy gọi tiên chúa và hai tướng Nguyễn Quế, Nguyễn
Phương. Cả ba người chạy ra phía đuôi rồng rồi như bay xa dần, trong khi
đó thì dân làng dơ tay vẫy vẫy, hoặc chắp tay chào vĩnh biệt, vẻ bùi
ngùi xúc động, cảm phục biết ơn.
Lệ ngạch trong lễ hội đình Dâu,
thôn Mỹ Đôi xã An ỉvlỹ huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam, với những tình tiết
diễn tả cuộc chiến, phù hợp với nội dung lịch sử và tín ngưỡng dân gian,
làm sáng tỏ thêm sự kiện lịch sử mà nhân dân địa phương tham gia đánh
phá giặc Minh.
Bên cạnh lệ thao diễn phá đồn giặc Minh, làng Dâu
còn lệ đào "cốt khí” (đào xương người chết). Lệ này thường diễn ra trong
xóm phía nam đình. Theo truyền thuyết, xóm này nguyên xưa là vùng
trũng, có lạch nước chảy qua. Thế kỷ XV khi giặc Minh chiếm đóng vùng,
bị dân binh địa phương tiêu diệt và xác giặc được tập trung vùi chôn ở
vùng trũng, sau này đất cao dần do san lấp, lại có sự tôn đất thành nền
nhà, thành xóm, nhưng phía dưới vẫn còn xương người. Truyền thuyết địa
phương nói tới việc bất ổn về sức khoẻ trong xóm do "âm khí giặc Minh"
gây ra… Do vậy, từ lâu đời, dân làng Dâu phải đào đất tìm xương người
đem chôn nơi khác. Có nhà phải cậy sân, đào sâu trong lòng đất tìm xương
người, có nhà phải đào cả nền nhà lấy xương đem chôn nơi khác... Tục
này có màu sắc duy tâm, song việc làm có thật này lại liên quan đến sự
kiện lịch sử đánh giặc Minh, góp phần làm sáng tỏ thêm về mảnh đất con
người thế kỷ XV ở làng Dâu, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Nguồn: http://manghoidap.vn/Le-hoi-lang-My-Doi-Lang-Dau-Ha-Nam-12747.html
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét