Dao Họ (thuộc bản Khe Mụ, xã Sơn Hà huyện Bảo Thắng, Lào Cai)
là một cộng đồng nhỏ so với cư dân trong xã. Trong văn hoá của người
Dao Họ thì lễ lập tịch đóng một vai trò quan trọng trong đời một con
người. Lễ lập tịch (hay còn gọi là cấp sắc) của người Dao Họ giống như
lễ thành đinh của các dân tộc ở nước ta và trên thế giới. Đó là nghi lễ
đánh dấu một giai đoạn của cuộc đời con người, giai đoạn từ tuổi thiếu
niên lên tuổi trưởng thành, được cộng đồng công nhận có vị trí trong đời
sống và sinh hoạt của người Dao Họ. Hơn thế nữa, đó không chỉ là sự
công nhận chính của cộng đồng, mà còn là sự chấp nhận của thần linh cho
chàng trai đó có đầy đủ mọi tiêu chuẩn của một thành viên chính thức của
cộng đồng.
Để làm được một lễ lập tịch
là điều mong ước của mọi gia đình nhưng không phải ai cũng có điều kiên
để làm vì chi phí khá tốn kém về mặt kinh tế. khi chưa làm lễ này thì
người đàn ông cho đến khi chết vẫn chỉ là người thường, không có vai trò
gì trong cộng đồng. Đến những nơi thiêng liêng anh ta không được quyền
vào, không được coi trọng trong các buổi hội hè, ăn uống, mà chỉ là
người phục vụ bình thường.
Gia đình định làm lễ lập tịch cho con
cần phải chuẩn bị gạo, thịt, tiền để làm cỗ cúng thần, mời các thầy cúng
và bà con dân làng. tuy rằng mọi người đến đều có quà mừng, nhưng phần
chủ yếu vẫn là do gia đình tự lo.
Làm lễ lập tịch gồm có hai loại
Tam Thanh và tam nguyên. Tam Thanh đơn giản hơn Tam Nguyên, nhưng người
làm Tam Nguyên xong sẽ ở thứ bậc cao hơn so với Tam Thanh. Làm Tam Thanh
hay Tam Nguyên là do truyền thống của từng gia đình. Nếu trước kia
trong gia đình ông bố làm Tam Thanh thì nay cũng chỉ làm Tam Thanh cho
con. Nếu bố trước kia đã làm Tam Nguyên thì nay con cũng phải làm Tam
Nguyên. Tam Nguyên đòi hỏi tốn kém và các nghi lễ phức tạp, do vậy mà
chỉ những người có điều kiện mới làm được.
Con
trai từ 13 tuổi trở lên là làm được nếu gia đình có điều kiện. Khi gia
đình đã quyết định làm lễ lập tịch cho con, phải lựa ngày tốt đến gặp
ông thầy để em tuổi có được ngày, được tháng, được năm hay không. Sau đó
về nhà, 20 ngày sau tiếp tục xem chân giò, nếu chân giò mà đẹp, tức là
làm được - thần linh đã đồng ý. Gia đình lấy một tờ giấy, viết tên tuổi
chàng trai, tên tuổi của thầy và ngày tháng gia đình sẽ làm và mời thầy
đến. Việc mời thầy phải trước ít nhất 7 ngày để thầy chuẩn bị tìm những
người giúp việc và xem sách dạy các bước làm, sắm sửa các đồ trang trí
để đến ngày đó mang tới gia đình. Điều này rất quan trọng bởi vì đối với
người Dao Họ, mỗi một bước làm trong mọi nghi lễ đều có sách quy định.
Vả lại việc trang trí trong một buổi lễ rất công phu, nào là viết sớ,
dán tranh thờ, trang trí bàn thờ, đồ thờ và các vật hành lễ. Do đó cần
phải có sự chuẩn bị trước hết sức tỉ mỉ.
Về phía gia đình một mặt tiếp tục chuẩn bị lễ vật, mời anh em họ hàng gần xa, mặt khác nhờ bà con anh em ở gần đến dựng lán thờ.
Lán
thờ là nơi sẽ tiến hành các nghi thức chính thức cho lễ lập tịch. Lán
được xây dựng trên một khoảng đất bên cạnh hoặc ở ngoài xa nhà ở một
chút, theo đúng kiểu một ngôi nhà thu nhỏ. Đặc biệt là một bên mái được
khoét trống ở giữa nhưng thẳng từ vách lên chứ không phải ở giữa mái.
Nơi đó sẽ dựng một bàn thờ ngoài trời. bàn thờ được dựng trên 4 cọc.
Toàn bộ lán thờ được thưng kín bằng vách xung quanh, chỉ để một cửa ra
vào. Trên khắp bốn vách được dán kín bởi rất nhiều tranh thờ, giấy màu,
các tờ sớ và những hình cắt dán rất công phu. Theo chiều dọc của lán thờ
có dựng 4 khối cọc thẳng nhau theo nóc lán, xung quanh bốn khối cọc
(mỗi khối gồm nhiều cọc tre nhỏ bó lại) được dán kín bằng giấy màu, sớ
.v.v ... Theo suy nghĩ của người Dao họ, đó là nơi nhốt các ma để chúng
không quấy phá con người trong ngày lễ. Có thể nói hầu hết các nghi lễ
quan trọng đều được tiến hành tại đây và nó là trung tâm của những ngày
lễ. Việc dựng lán thờ là một việc làm hết sức công phu, nên gia chủ phải
báo trước để thầy cúng chuẩn bị. Đến ngày ông thầy đến trang trí lán
thờ, mọi việc ông đều dựa trên luật tục đã quy định mà bàn bạc, chứ
không bao giờ độc đoán bắt gia chủ phải nhất nhất tuân theo ý của mình.
Đây cũng là nét văn hoá đáng chú ý.
Làm lán thờ đã xong, nhà chủ
chọn lấy vài người thân cận đi lấy dây để đan võng. Đó là một tấm lưới
được đan bằng những cây leo trong rừng để đỡ chàng trai sau khi đã hoàn
thành các nghi lễ Tam Nguyên từ trên trời trở lại với cộng đồng. Người
đi lấy dây làm võng không cần phải lựa chọn kỹ, nhưng loại dây leo để
làm võng phải được lựa chọn rất kỹ. Đó là loại dây leo dài, dẻo và chỉ
chọn những cây leo vắt qua ngòi nước hoặc suối và thật xoắn. Loại cây
leo đó gọi là tay thảy mảy, đã được truyền từ đời nọ qua đời kia, dùng
để bện võng. Thường thường những người đi tìm dây leo là những người đã
rất thông thạo, biết ở chỗ nào có nhiều loại dây đó. Người ta đến lấy và
cuộn thành bó khiêng về bóc hết vỏ, chỉ lấy ruột rồi tước ra để thành
đống sẵn đó.
Làm bàn địa cũng là một việc quan trọng. Bàn địa là nơi
thực hành những nghi lễ cuối cùng của người lập tịch Tam Nguyên. Tại
đây, sau khi đã làm xong các nghi lễ, người thụ lễ sẽ buông mình rơi
xuống tấm lưới võng do mọi người cầm đỡ ở dưới, biểu tượng cho một cuộc
thử thách dài, qua hết các đoạn đường và từ trên trời trở về với cộng
đồng.
Nơi đặt bàn địa là vị trí cao ráo, thoáng ở đầu bản. Tại đó
người ta dựng 4 chiếc cọc bằng bốn đoạn gỗ to, khoẻ và chắc chắn. Trên
đầu bốn cọc ấy được đặt một chiếc bàn hướng về phía đông, đó cũng là nơi
người làm lễ lập tịch phải rơi xuống. Bàn gỗ được cột chặt vào bốn góc ở
độ cao từ 2,5 m đến 3 m. Một chiếc thang dài 3m được đặt phía tây gắn
vào mép bàn. Thang gồm 12 bậc, tượng trưng đường đi lên trời.
Trước
khi làm bàn địa, người ta sắm một mâm lễ vật gồm hương, gạo, trứng,
rượu. Thầy cúng đặt mâm lễ ấy trên chỗ đất sẽ làm bàn địa. Trên mâm lễ
còn có một con dao găm. Sau khi thầy cúng khấn vái xong liền cầm con dao
găm vạch ra mấy vạch ở chỗ sẽ chôn cọc, tựa như thần linh đã mách bảo
chỗ phải đặt bàn địa. Sau đó, thầy cúng cầm chiếc rìu, sẽ dùng để chặt
cây làm cọc, dâng lên trước mâm lễ và khấn, rồi cầm rìu ra chặt vào các
cây đã để sẵn cạnh đó. Thầy cúng tiếp tục khấn một vài lời nữa và lấy
con dao găm trên mâm ra đo độ dài của cọc để lấy kích thước. lấy xong
ông thầy khấn tiếp vài lời nữa rồi mọi người bắt tay vào việc.
Điều
đáng chú ý ở đây là việc thực hành nghi lễ cúng này có hai người. Một
ông thầy đứng ở trước mâm lễ đọc tất cả những lời khấn, còn một ông khác
ngồi đối diện sát mâm thực hiện những bước đã kể trên theo lời khấn của
ông thầy đứng trước mâm. Khi xong các nghi thức, những người đàn ông,
mỗi người góp một tay để làm bàn địa, người đào hố, người chặt cây,
người buộc thang... Chẳng mấy chốc mà chiếc bàn địa đã dựng xong. Các
thầy cúng kiểm tra lại độ chắc chắn của thang, của bàn rồi mọi người
dùng lá chuối phủ lên. Việc làm bàn địa kết thúc.
Trong lúc ở
dưới đầu bản làm bàn địa thì trên nhà gia chủ, người ta gây mối để đan
võng. mối gây như một chiếc chôn quang, xung quanh chiếc võng tròn kiểu
chôn quang này, cách đều từng đoạn, người ta buộc sẵn các sợi dây dài ra
các phía, để sau này cứ theo các đoạn dây ấy mà đan tiếp vào làm thành
một tấm lưới võng. Gây mối xong, người ta dồn tất cả đống dây leo đã
tước sẵn ấy thành một đống, buộc gọn lại, đợi đến lúc đem ra chỗ bàn địa
để đan võng. Trong lúc mọi người gây mối để đan võng, có nhạc của
chiêng và trống kèm theo.
Lễ lập tịch của người Dao Họ ở Khe Mụ
kéo dài tới ba ngày và có thể hơn nữa. Nhiều nghi lễ và sinh hoạt tín
ngưỡng được tiến hành trong thời gian đó. Người ta thường kết hợp làm cả
lập tịch cho Tam Thanh, Tam Nguyên và làm chay (hay còn gọi là làm ma
khô) vào cùng một lần. Người ta quy định rõ cho từng ngày trong thời
gian diễn ra lễ lập tịch phải làm những gì.
Lễ trình trước bàn thờ tổ tiên.
Các nghi lễ ở trong lán thờ.
Các nghi lễ ở ngoài bàn địa.
Trong
số này, dài nhất và phức tạp nhất là các nghi lễ diễn ra ở trong lán
thờ. Đây là nơi hành lễ chính thức và gồm rất nhiều lễ như lễ cúng cầu,
lễ múa gà, lễ cân lợn, làm bùa, lễ dẫn đường cho Tam Thanh và Tam Nguyên
.v.v... Về thời gian, trong ba ngày thì ngày đầu tiên thực hiện những
nghi lễ mở đầu cho lễ lập tịch, cúng tổ tiên, thần linh để báo cho biết,
mời họ về dự và giúp đỡ đuổi tà ma; đón khách đến thăm hỏi dự lễ, chuẩn
bị lán thờ. Ngày thứ hai tiếp tục trang trí lán thờ, dán tranh, viết
sớ, yểm bùa trừ tà ma, làm bàn địa, đan võng và cúng lễ trong lán thờ
đến hết đêm. Sang ngày thứ ba thì từ lúc chưa sáng đã tiến hành múa gà,
cân lợn và kết thúc các nghi lễ trong lán thờ để sau đó thực hiện các
nghi lễ cuối cùng là nghi lễ nhảy võng từ trên bàn địa. Sau nhảy võng là
kết thúc lễ lập tịch. Nếu gia đình nào kết hợp làm chay thì sau lễ nhảy
võng một lúc người ta sẽ tiến hành làm chay.
Nhảy võng là nghi
lễ mà người con trai làm Tam Nguyên phải tiến hành ở giai đoạn cuối của
lễ lập tịch. Đó là khi anh ta buông mình rơi từ trên bàn địa xuống tấm
lưới to do nhiều người đàn ông khác từ dưới căng ra và đỡ. Võng ở đây
chính là một tấm lưới to được đan bằng loại cây leo, đã được trình bày ở
trên. Người Dao Họ quan niệm rằng việc họ hứng tấm lưới ấy ra chờ đón
người con của cộng đồng, sau khi đã trải qua mọi thử thách, được thần
đất, thần gió, được tổ tiên và các vị thần linh khác che chở, nay đã
chính thức được làm một người con của gia đình, dòng họ, một thành viên
của cộng đồng với đầy đủ phẩm chất của nó.
Vào
sáng ngày thứ ba, sau khi những nghi lễ đã kết thúc, tại lán thờ lúc
này, người ta choàng cho người làm Tam Nguyên một chiếc áo dài đỏ, một
chiếc khăn thêu trùm lên đầu. Hầu hết tất cả các thầy cúng có mặt tại
đây để tiến hành nghi lễ. Bảy ông thầy, một người cầm dao, một số tay
không, đi xung quanh Tam nguyên, vừa vỗ tay vừa tung dao chém vào khoảng
không. Sau đó, họ cầm mỗi người một ngọn nến đi vòng quanh Tam Nguyên.
Hết vòng, tất cả cùng chụm tay vào trán Tam Nguyên, lầm rầm đọc thần
chú, rồi cùng áp tay vào bụng, vào chân Tam Nguyên đọc thần chú. Một ông
thầy đứng bên ngoài đọc to các lời khấn. Tiếp đến tất cả các ông thầy
cùng nhau ngồi xuống trước bàn thờ để đọc lời khấn. Đọc xong, một ông
thầy trang phục giống như Tam Nguyên, đầu đội mũ có đuôi, trán có đeo
một bức tranh vẽ một vị thần, nối với Tam Nguyên bằng một tấm vải ở
trước bụng, dắt tam nguyên đi vòng quanh chiếc cột ở giữa lán thờ. Các
thầy có mặt cùng nhau đọc những lời khấn viết sẵn trên giấy và chuẩn bị
đi xuống bàn địa.
Đoàn người dẫn tam nguyên xuống bàn địa gồm có:
Người đi đầu tiên cầm hai kiếm, vừa đi vừa múa. Theo sau là một người
cầm thước, một người cầm kiếm và một người đeo mặt nạ. Rồi tiếp đến hai
người với những chiếc tua vải ở tay vừa đi vừa múa. Kế đến là một ông
thầy dẫn Tam nguyên đi. Ông này đi giật lùi, mặt đối mặt với Tam Nguyên
để dẫn đường. Lần lượt theo sau là một ông thầy đội mũ, mặc áo đỏ, tay
ôm sách; một người cầm hương, một người đọc lời khấn trong lúc đi. Hai
người khiêng võng cùng dàn nhạc và mọi người đi theo.
Đến bàn
địa, tất cả đi quanh bàn địa thuận chiều kim đồng hồ. Phía trước mặt bàn
địa, về hướng đông, có đặt một chiếc bàn hương và một bức tranh thánh,
phía đối diện bàn này ở hướng tây, sau chân thang lên bàn địa, cũng đặt
một bàn hương như thế. sau khi ba vòng đi quanh thang kết thúc, nến được
thắp và cắm dọc hai bên của 12 bậc thang lên bàn địa. Tam Nguyên cùng
ông thầy dẫn đường bước lên bậc đó. Các ông thầy cúng khác ngồi hết lên
các bậc thang còn lại phía trên. Sau đó tất cả các ông thầy trên đó từ
từ đi xuống, một ông thầy khác từ dưới đất bước lên thang vừa đi vừa
khấn, vừa xua tay và gạt hết những cành lá chuối che trên đó xuống. Một
ông thầy đứng trước chân thang đọc lời khấn. Một ông khác tiếp tục trèo
lên thang. Khi lên tới bàn, ông ta đứng dậy làm những động tác thần chú
và múa ở trên đó. Một tay ông cầm tua vải, tay kia cầm một chiếc gậy
bằng gỗ, một đầu vót nhọn, một đầu là con dao. Sau khi múa xong, ông ta
không đi xuống theo bậc thang, mà nhảy xuống. Lúc đó ông thầy đang đứng
đọc khấn trước chân thang tiếp tục lên. Tay ông cầm con dao có đeo một
vòng tiền xu ở cán, khi lên tới bàn ông lấy tay vạch trên mặt bàn và thì
thầm đọc lời niệm chú. Kết thúc ông ta cũng nhảy xuống. Một điều đáng
lưu ý là cả hai ông này mỗi khi nhảy xuống đều vỗ hoặc xoa tay vào cột ở
bàn địa rồi mới nhảy. Mặt bàn khá cao so với mặt đất nên các ông đều
trèo thả chân rồi mới nhảy chứ không nhảy thẳng từ trên mặt xuống.
Khi
ông thầy cầm dao có vòng tiền kết thúc nghi lễ của mình thì ông thầy
dẫn Tam Nguyên bắt đầu lên. hai thầy trò cùng lên cầu thang song song
với nhau, mỗi người một bên. Vừa đi vừa cúi xuống dùng tua vải xua xua
hai bên như để dẹp đường. Đến cạnh bàn, ông thầy cũng niệm chú rồi đỡ
Tam Nguyên lên mặt bàn. Ông ta lấy ra những mảnh vải trắng và đen (do
ông chủ nhà sắm sẵn và đưa lúc ông thầy còn đứng dưới chân cầu thang bắt
đầu kẹp vào ba khe ngón tay giữa của Tam Nguyên, mỗi khe ba cặp. Những
tấm vải dùng quấn ở bụng của cả thầy lẫn trò được cởi ra và luồn xuống
khe thang. Ông thầy nhảy xuống khỏi thang vào bàn địa bị chặt đứt và
thang được đem đi. Trên bàn lúc này chỉ còn Tam Nguyên ngồi xuống, quay
lưng về hướng đông (nơi sẽ rơi xuống, mắt nhìn về hướng tây nơi ông thầy
sẽ chủ huy cuộc nhảy võng. Ông thầy cầm con dao khi nãy bây giờ ngồi
cách bàn địa khoảng 5m, bắt đầu hành lễ. Ông ta hô lên hai tiếng ê, ê
báo cho tam nguyên biết cuộc lễ bắt đầu. Sau đó, ông ta hô tiếp một lần
đồng thời nhổm người lên một ít, hô lần thứ hai đứng khom và hô lần thứ
ba đứng thẳng người lên. Xong việc này, ông dang tay phải sang phải và
cũng hô ba lần, mỗi lần hô là một lần nâng dần lên, đến câu thứ ba thì
giơ thẳng lên đầu. Hết bên phải chuyển sang bên tay trái. Cứ mỗi lần hô
và làm động tác này thì Tam Nguyên ở trên bàn cũng nhìn mà làm theo, và
xong một bên tay thì Tam Nguyên thả một cặp hai miếng vải đen trắng ở
một kẽ tay. Cứ như vậy sau sáu lần thì số mảnh vải kẹp ở tay cũng hết.
Xong
việc thả các mảnh vải, theo lời hô của thầy, Tam Nguyên đứng thẳng và
ngồi xuống, hai tay bó vào gối. Lại ba lần hô, Tam Nguyên theo đó mà
chụm chân và xoay dần ra mép bàn phía đông. trong lúc đó, mọi người ở
dưới cùng nhau trải võng cho căng ra. Trên mặt võng trải 12 cái chăn đan
chéo nhau, đồng thời lấy gạo vãi khắp mặt võng. Số chăn phải xếp sao
cho để lúc người Tam Nguyên nhảy xuống thì tất cả các đầu chăn phải chụm
lại phủ kín toàn bộ người nhảy võng.
Tam Nguyên cứ nhích dần,
nhích dần. Đến lần hô thứ ba thì buông mình rơi xuống võng theo đằng
lưng xuống trước. khi xuống tới nơi, tất cả các chăn phủ kín Tam Nguyên.
Anh ta không được động đậy mà vẫn giữ nguyên tư thế ngồi bó gối. Chỉ
đến khi các thầy xông vào, lấy tay đập vào đầu gối, lúc ấy Tam Nguyên
mới được bỏ tay ra và duỗi thẳng người và chân. các thầy cởi áo của mình
ra đắp cho Tam Nguyên. Người ta bắt đầu đọc những lời thần chú. Sau đó
người ta nâng Tam Nguyên ngồi dậy, các thầy lần lượt vào dùng dấu bùa
đóng (tượng trưng) và niệm chú cho Tam Nguyên, bón trứng và cơm cho Tam
Nguyên. Người ta đem đến một cuộn vải và chiếc ống nứa để dốc tiền vào
lòng Tam Nguyên để kiểm tra âm dương rồi xé cho Tam Nguyên hai đoạn vải.
Mọi
thủ tục như vậy là xong. Giờ đây chàng trai ấy coi như đã được cấp sắc
là Tam Nguyên. Và anh ta đã trở thành một ông thầy Tam Nguyên mới và hoà
vào dòng các thầy múa ba vòng xung quanh bàn địa. trong lúc vừa múa các
thầy cùng nhau chặt võng ra nhiều mảnh và đem vứt ra bốn phía. Lễ kết
thúc, mọi người lại nhảy múa trở về nhà trong tiếng nhạc rộn rã.
Những
người hôm qua dựng bàn địa nay lại tự tay phá nó ra, ngoài những người
đó không ai được làm. Lán thờ được dỡ và đem ra khỏi khu vực nhà ở để
đốt đi.
Lễ lập tịch của Dao Họ là một lễ hội vừa phong phú vừa
phức tạp, trong đó chứa đựng rất nhiều các các phong tục, tín ngưỡng của
dân tộc Dao Họ. Nó là một hiện tượng văn hoá tổng hợp gồm nhiều loại
hình múa, nhạc, lễ và đặc biệt là số lượng lớn những bài cúng do các
thầy cúng đọc từ các sách đã được quy định từ lâu đời, có ý nghĩa rất
quan trọng đến đời sống vật chất vào tâm linh của tộc người này.
Nguồn: http://manghoidap.vn/Le-hoi-Lap-tich-cua-nguoi-Dao-Ho-Lao-Cai-12978.html
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét