Lễ hội Nước Mặn là một trong những lễ hội cổ truyền có quy mô lớn và ra đời sớm nhất ở Bình Định
cách đây gần bốn thế kỷ. Kể từ khi cảng thị Nước Mặn bước vào thời phồn
vinh, người Hoa từ Quảng Đông, Phúc Kiến dong thuyền sang xin chúa
Nguyễn nhập cư mở phố buôn bán cùng người Việt, lập chùa Ông (Quan Thánh
đế miếu) và chùa Bà (Thiên Hậu miếu) ở thôn An Hòa xã Phước Quang,
huyện Tuy Phước, để thờ cúng. Lễ hội Nước Mặn được tổ chức hàng năm
trong ba ngày: ngày cuối tháng giêng âm lịch, có thể là 29 hay 30 tùy
tháng thiếu đủ, và ngày 1 và 2 tháng 2 tại Chùa Bà.
Lễ hội Nước
Mặn ra đời và được tổ chức ở chùa Bà vừa đánh dấu một cảng thị ở vùng
đất biên viễn bước vào thời kỳ phồn vinh, vừa thể hiện tinh thần dung
hợp văn hóa Việt - Hoa khi biên giới Đại Việt mới tới núi Đá Bia (Đèo Cả
- Phú Yên), và cứ thế duy trì, phát triển, thăng trầm theo nhịp sống
của cảng thị này. Cho đến ngày nay, mặc dầu cảng thị đã suy tàn, biến
dạng thành một vùng quê yên tĩnh nhưng chùa Bà vẫn còn, lễ hội Nước Mặn
vẫn còn như một hoài niệm về một đô thị thương cảng đã từng là trung tâm
thương mại, văn hóa một thời của Bình Định.
Thuở
xưa, khi cảng thị còn phồn vinh, phố phường đông đúc, tới ngày lễ dưới
sự điều hành của ban nghi lễ, dân cảng thị cả người Việt và người Hoa
(Minh Hương) khiêng kiệu tới miếu Thành Hoàng, miếu Quán Thánh, miếu Bà
Mụ (bà chúa Thai sinh - Bảo sản) rước linh vị của các vị thần này về
chùa Bà để chuẩn bị tế lễ. Nửa đêm ngày 30 là lễ tế chính thức thần
Thành Hoàng, Thiên Hậu, Quan Thánh, Bà Mụ là những vị thần khai sáng che
chở cho đời sống tinh thần, vật chất của mọi người dân cảng thị, cầu
xin các vị thần ban phúc lành cho làm ăn phát đạt, con cháu đông đúc,
sinh đẻ tốt lành để cảng thị ngày một phát triển. Những gia đình trong
năm qua làm ăn phát đạt, giàu có hẳn lên, sinh con đạt ý nguyện như đã
cầu xin hay tai qua nạn khỏi thành kính mang lễ vật tới tạ ơn các vị
thần.
Có người ở Gia Lai, Kon Tum xuống, từ Phú Yên, Khánh Hòa,
thành phố Hồ Chí Minh ra hiến tế cả một con bò, con heo hay một số tiền
khá lớn góp phần cùng dân cảng thị tu sửa đền miếu và tiến hành lễ hội.
Phần
tế lễ thể hiện rõ tinh thần dung hợp tín ngưỡng Việt - Hoa trong đời
sống tâm linh của người Nước Mặn. Các vị thần người Việt và người Hoa
sùng bái đều được rước về ngồi chung trong chùa Bà để mọi người gần xa
tới chiêm bái, thỉnh cầu. Sự xuất hiện thần Thành Hoàng trong tế lễ với
ngai thờ riêng chứng tỏ các vị thần dù của người Việt hay người Hoa đều
chịu sự cai quản của Thành Hoàng bản xứ.
Sau ngày tế thần, sang
ngày thứ hai và thứ ba là hai ngày hội. Ban tế lễ cũng như ban tổ chức
hội đều dưới sự cai quản, hướng dẫn của chính quyền cảng thị. Ngày tế
thần là nghi thức tín ngưỡng, tới ngày hội mới thực sự phô diễn hết vẻ
đẹp văn hóa cảng thị xưa. Khách thập phương xa gần về Nước Mặn chờ đợi
từ mấy ngày trước. Sau tế lễ họ mới vào chùa cầu cúng và dự hội. Nghi
thức đầu tiên mà mọi người mong chờ là hình thức rước các biểu trưng
trên đường phố để tưởng nhớ, suy tôn công lao khai sáng của cha ông đã
biến vùng sình lầy ven biển trở thành một đô thị thương cảng sầm uất ở
miền cực nam nước ta thời bấy giờ. Những hình người: kẻ đốn cây phá rừng
ngập mặn, người vỡ ruộng đắp bờ, kẻ bủa lưới đánh cá, người chăn nuôi
gia súc.v.v… được cung kính đặt lên kiệu nối theo nhau khiêng đi. Lại
còn có biểu trưng tàu thuyền viễn dương với những tay chèo vạm vỡ vượt
sóng gió làm sống lại những ngày đầu tàu thuyền bốn phương tới cảng thị
buôn bán. Phật giáo và Đạo giáo theo bước chân di cư của người Việt, sau
đến người Hoa tới Nước Mặn nên trong ngày hội còn có rước biểu trưng Hà
Tiên Cô ngồi trong hoa sen có cánh khi cụp khi xòe thu hút sự chú ý của
người xem.
Việc rước các biểu trưng khai hội qua phố phường
đánh thức truyền thống tốt đẹp của cha ông trên đường mở nước và xây
dựng vùng đất mới.
Sau rước biểu trưng, ban ngày thì các trò chơi
dân gian nối tiếp diễn ra. Tùy điều kiện tổ chức từng năm nhưng nhìn
chung có: đánh đu, kéo co, đấu võ, đấu vật, chơi cù, chọi gà, bắt vịt,
nấu cơm thi, đập ấm, bịt mắt bắt dê. Có trò chơi tao nhã như thả thơ, xổ
cổ nhơn, hô bài chòi, đánh cờ người. Có trò chơi tiếp nhận của người
Hoa như tục đổ giàn, đốt cây bông. Lại còn có trò chơi chịu ảnh hưởng
của các thầy cúng Chàm thuở trước như hát mộc xà leo. Ban đêm, các gánh
hát nổi tiếng ở phủ Quy Nhơn được mời tới hát bả trạo, diễn tuồng; các
nhà sư đưa phật tử đến múa lục cúng.
Ngày cũng như đêm các trò
chơi dân gian và múa hát đã thu hút đông đảo người trong vùng và khách
phương xa tới dự hội. Vì thế trong ba ngày lễ hội Nước Mặn thuở xưa,
người phủ Quy Nhơn sống trong niềm hân hoan và bầu không khí đậm đà bản
sắc văn hóa dân tộc. Trên các đường phố, người Việt, người Hoa và cả
người phương Tây, Đông Nam Á tới truyền giáo, buôn bán cùng chung vui.
Nhiều màu da, nhiều tiếng nói, trang phục đủ kiểu, đủ màu càng làm đa
dạng thêm, đẹp thêm cho lễ hội.
Từ
giữa thế kỷ XVIII trở về sau, biển lùi ra xa, tàu thuyền lớn không vào
Nước Mặn được, cảng thị suy tàn, chuẩn bị cho cảng thị Quy Nhơn ra đời
vào cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX. Người Nước Mặn, nhất là những
thương nhân Minh Hương chuyển về Quy Nhơn, các thị trấn thị tứ trong
vùng hay đi xa vào phương nam tới tận Chợ Lớn - Sài Gòn buôn bán. Thế
nhưng đến ngày lễ hội vẫn trở về Nước Mặn như trở về quê hương một thuở
của mình.
Ngày nay, sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ, nhiều di tích còn lại của cảng thị bị xóa sạch, đền miếu nếu không
chỉ là đống gạch vụn thì cũng mái sập tường xiêu. Là vùng trắng bị bom
đạn Mỹ - Ngụy tàn phá dữ dội, dân Nước Mặn kẻ vào rừng kháng chiến,
người sơ tán đi xa. Tới ngày thống nhất đất nước mới trở về dựng lại nhà
cửa, tu bổ lại chùa Bà - miếu thờ duy nhất còn lại ở vùng trung tâm
cảng thị cho đến ngày nay. Lễ hội Nước Mặn được chính quyền địa phương
cho phép phục hồi, song đã đổi mới cả nội dung lẫn hình thức cho phù hợp
với đường lối giữ gìn phát huy di sản văn hóa quý báu của dân tộc. Lễ
hội vẫn tổ chức trong ba ngày, trình tự tiến hành vẫn như xưa. Dân địa
phương và khách xa gần, nhất là những gia đình vốn quê Nước Mặn nhưng đã
đi làm ăn xa trở về dự lễ hội khá đông.
Về phần tế lễ trong đêm
đầu là tín ngưỡng của người dân trong vùng vẫn được tôn trọng và tiến
hành riêng theo ý nguyện. Sang ngày thứ hai mới chính thức khai hội.
Đảng ủy, chính quyền địa phương giao cho Mặt trận Tổ quốc long trọng đọc
diễn văn khai mạc trước quan khách và công chúng về dự hội, nêu công
lao khai sáng của cha ông, lịch sử phát triển cảng thị và vai trò cảng
thị trong đời sống kinh tế, văn hóa Bình Định trong nhiều thế kỷ qua.
Phần
hội không còn nghi thức rước biểu trưng trên các đường phố như xưa
nhưng vẫn tổ chức một số trò chơi mang tính chất truyền thống, ngoài ra
còn tổ chức đấu bóng chuyền giữa các xã lân cận. Ban đêm vẫn đón các
gánh hát trong vùng và cả nhà hát tuồng Đào Tấn về diễn suốt mấy tối lễ
hội.
Cùng với hình bóng cảng thị, màu sắc cổ truyền của lễ
hội Nước Mặn đã phai nhạt đi nhiều qua bao biến động lịch sử theo năm
tháng. Từ một vùng sình lầy, nước biển theo sông rạch dâng lên thường
ngày đã được con người bao đời khai phá, dựng xây thành một cảng thị sầm
uất. Sông bồi, biển lấp, Nước Mặn không có cái may mắn như Hội An vẫn
giữ được hình hài thuở trước. Cho nên lễ hội Nước Mặn như là hồi ức về
một đô thị thương cảng lớn nhất phủ Quy Nhơn thuở trước đã suy tàn, hóa
thân thành thành phố biển Quy Nhơn tỉnh Bình Định ngày nay.
Nguồn: http://manghoidap.vn/Le-hoi-Nuoc-Man-Binh-Dinh-12596.html
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét