Lễ hội được tổ chức ngày 14- 4 âm lịch hàng năm tại Đền thờ bà chúa Muối thuộc làng Quang Lang, xã Thụy Vân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Lễ hội là nơi gửi gắm ước vọng của những người dân làng muối về sự sản
sinh, sinh sôi, dồi dào. Nơi đó có sự giao hoà của con người cùng sông
nước đất trời làm lòng người thêm tươi trẻ, cây cối thêm xanh tươi, thóc
lúa thêm nhiều, báo hiệu một mùa muối dồi dào, bội thu.
Bà chúa
Muối - có tên thật là Nguyệt Ánh. Theo truyền thuyết kể lại rằng: Một
hôm, khi chở muối trên một chuyến đò, Nguyệt Ánh gặp thuyền của vua Trần
Anh Tông trên sông Hồng. Mấy người chèo thuyền khát nước, liền gọi đò
cô bán muối đến và xin nước uống. Nàng e lệ sượng sùng, khép nép, nước
cầm tay, tà áo che mặt. Chợt thấy đôi bàn tay xinh xắn của nàng, vua đón
sang thuyền mình và sau đó lập làm vợ ba. Sống trong cung điện nhưng
nàng không nguôi nhớ về quê nhà, nhà vua đành phải đồng ý xuất lụa là,
vàng bạc rồi cho quân lính đưa Nguyệt Ánh về quê. Không lâu, bà lâm bệnh
nặng, rồi qua đời vào ngày 14/4. Nhà vua được tin thương tiếc đã sắc
phong cho bà làm Phúc thần, người dân làng Quang Lang biết ơn bà lập đền
thờ để con cháu đời đời tưởng nhớ công lao của bà - đó là đền thờ bà
chúa Muối ngày nay.
Lễ
hội đặc sắc với điệu múa ông Đùng, bà Đà mang đậm chất folklore - nhằm
cầu mong sự sinh sôi, thịnh vượng. Hình ông Đùng, bà Đà được đan bằng
tre mỏng, đan theo kiểu mắt cáo. Thân hình cao tới 1,5m - 2m, hình chóp
nón, đường kính phía dưới rộng, đủ cho một người chui lọt vào. Sáng sớm
ngày 14/4 âm lịch, các thôn trong làng mang các hình nộm ông Đùng, bà Đà
vào Đền thờ bà chúa Muối để tiến hành các nghi thức tế lễ một cách
nghiêm trang thành kính.
Tục chính của lễ hội là múa Đùng được
diễn ra vào lúc nhập nhoạng tối cùng ngày. Trong khi múa người ta xướng
vang những câu tụng ca công đức của bà chúa Muối như: "Lạy chúa! Muối
của chúa năm nay được mùa lắm! Lạy chúa, lạy chúa…".
Trong lễ hội các hình nộm mang cả dáng dấp ông Đùng và bà Đà.
Khi múa lúc nghiêng ngả, quay sang phải, sang trái, cho ông bà có cơ
hội "bày tỏ" tình cảm vui mừng với nhau. Các vai ông Đùng, bà Đà phải
phối hợp sao cho những lần giáp mặt, thân chập vào nhau. Người Quang
Lang giải thích đó là lúc ông bà đang "ăn nằm" với nhau. Sau đó, đoàn
múa ra khỏi Đền và đi quanh làng, các Đùng con quấn quýt xung quanh Đùng
bố mẹ. Dân làng đi theo nhộn nhịp, vừa đi vừa hát múa. Lúc đám rước
quay về tới Đền thì dân làng vội vã xô nhau vào để lấy cho được một nan
nứa trên hình nộm hai ông bà về cắm vào ruộng, vào vườn, trên thuyền để
lấy may.
Nguồn: http://manghoidap.vn/Le-hoi-ong-Dung-ba-Da-Thai-Binh-12708.html
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét