Lễ hội Dạ cổ hoài lang
hay còn gọi là Lễ giỗ tổ cổ nhạc Bạc Liêu được tổ chức hàng năm vào
ngày 12 tháng 8 âm lịch, tại Khu lưu niệm của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu,
phường 2, Thị xã Bạc Liêu. Lễ hội là sự tri ân cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu
và những bậc tiền nhân đã có công sáng tạo ra loại hình nghệ thuật
truyền thống độc đáo của dân tộc.
Hàng năm cứ đến tháng 8 âm
lịch, các anh chị em trong làng ca nhạc cổ Bạc Liêu lại chuẩn bị sẵn
sàng cho ngày giỗ Tổ. Địa điểm hành lễ lúc trước đặt tại nhà nhạc sĩ Lê
Văn Chột ở xóm Rạch Ông Bổn, năm 1950 dời về nhà nhạc sĩ Trần Tấn Hưng
tọa lạc tại số 225 đường Minh Mạng - Bạc Liêu (nay là số 165 đường
Nguyễn Thị Minh Khai, phường 5 thị xã Bạc Liêu), đến năm 1982 ông Trần
Tấn Hưng từ trần, lễ giỗ Tổ được dời đến một vài nơi khác và hiện nay
được tổ chức hàng năm tại Đoàn Cải lương Cao Văn Lầu.
Lễ giỗ Tổ
ngày nay được tổ chức đơn giản hơn nhiều so với những thập niên giữa thế
kỷ XX trở về trước. Ngày xưa, mỗi năm cứ cách ngày 12 tháng 8 vài hôm
thì có một cuộc họp của những nhạc sĩ lão thành để thảo luận về việc tổ
chức lễ giỗ Tổ. Nội dung của cuộc họp là sự thống nhất về chương trình
hành lễ, các bản nhạc tế lễ, hương đăng trà quả, đồ ăn thức uống; quy
định về số tiền đóng góp của các thành viên; cử ra thư ký, thủ quỹ và
thành lập các ban: tế lễ, tiếp tân, hậu cần...
Chiều
ngày mùng 10 tháng 8 người thủ quỹ sau khi nhận niên phí của các thành
viên giao tiền lại cho ban hậu cần, sáng ngày 11 ban này cử người đi chợ
để mua sắm các thứ cần dùng, đêm hôm đó họ bắt đầu nấu nướng và kể như
phải thức cả đêm để hoàn thành nhiệm vụ được giao, ban tế lễ cũng có mặt
để chỉ đạo trang trí bàn thờ Tổ, sắp xếp nơi hành lễ, chuẩn bị nơi tiếp
khách...
Sáng ngày 12 tháng 8 ban tiếp tân đã có mặt thật sớm,
chuẩn bị trà nước sắp đặt bàn ghế, phụ giúp ban tế lễ để dâng cúng hoa
quả rượu trà do khách mang tới. Ban tiếp tân còn phụ trách cả việc bưng
mâm để tế lễ.
Trên bàn thờ Tổ không có ảnh tượng mà chỉ có một
bài vị ghi bốn chữ Cổ Nhạc Tổ Sư bằng chữ Hán. Phía trước là một bát
hương to, hai bên có bày chân đèn với cặp nến thắp sáng, trên bàn thờ
bày ngũ quả và hương hoa, hai bên bàn thờ treo các loại nhạc khí như:
đàn kìm, đàn sến, đàn gáo, đàn cò, đàn tranh, đàn độc huyền, đàn lục
huyền... các loại kèn sáo và cạnh đó là một bộ trống cổ; phía trước bàn
thờ là một cái bàn thấp để dọn cúng thức ăn, giữa bàn thường là một con
heo quay đỏ chói, phía trước là một khoảng trống lớn có trải đệm hoặc
chiếu để tế lễ.
Đến 10 giờ bắt đầu hành lễ. Người dự lễ đa số là
các nghệ nhân, nghệ sĩ địa phương và những người hâm mộ. Mọi người đứng
thành hình chữ U lớn trước bàn thờ, người chủ tế và các người bồi tế
với trang phục áo dài khăn đóng màu xanh, tuần tự bước ra trong tiếng
chuông trống liên hồi, bắt đầu thực hiện các nghi thức như: dâng hương,
dâng hoa, dâng ngũ quả, dâng bánh, dâng giấy tiền, dâng rượu... sau cùng
là đọc văn tế - nội dung của bài văn tế tuyên dương công đức Tổ và cầu
cho quốc thái dân an.
Sau
khi tế lễ, mọi người lui về vị trí của mình và cùng ngồi xuống. Tiếng
nhị cầm (đàn cò) lại lảnh lót vang lên, các loại đàn sáo hòa theo mở đầu
một bản nhạc lớn; giữa khói hương nghi ngút một người (đã được chỉ định
trước) bước ra quỳ trước bàn thờ Tổ lạy ba lạy, xong lại cất tiếng ca
để hòa với điệu đàn; bản mở đầu này thường là Lưu thủy trường - bản thứ
nhất của 20 bản Tổ; buổi lễ tiếp tục bằng sự hòa tấu một số bản (đã định
trước) trong 19 bản Tổ còn lại là: Phú lục, Bình bán, Xuân tình, Tây
thi, Cổ bản, Xàng xê, Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ, Long đăng, Long ngâm,
Vạn giá, Tiểu khúc, Nam xuân, Nam ai, Đảo ngũ cung, Tứ đại oán, Phụng
hoàng, Giang nam, Phụng cầu. Chấm dứt phần lễ hiến Tổ bằng một hồi trống
dài, mọi người đứng dậy nghiêm trang bái Tổ.
Sau khi cúng tế,
các món ăn lại được dọn ra, cũng bày trí theo hình chữ U, những người
tham dự vừa ăn vừa uống vừa hòa tấu tiếp tục. Giai đoạn này những người
tấu nhạc thực hiện các nhạc bản canh tân, thường mở đầu bằng các nhạc
bản do Nhạc Khị sáng tác như: Ngự giá đăng lâu, Minh hoàng thưởng
nguyệt, Phò mã giao duyên hoặc Ái tử kê. Sau đó tiếp tục hòa tấu một số
trong các nhạc bản sau đây:
- Nhạc bản do người Bạc Liêu sáng
tác: Dạ cổ hoài lang, Thu phong (Bá điểu), Liêu giang, Ngũ quan, Ngự
giá, Vạn thọ, Hòa duyên, Huỳnh ba, Mẫu đơn, Nhật nguyệt, Lưỡng long, Tam
quan nguyệt, Vọng cổ, Hứng trung thinh, Minh hoàng thưởng nguyệt, Tùng
lâm dạ lãm...
- Nhạc bản cải tiến từ nhạc cổ Trung bộ: Phẩm
tuyết, Nguyên tiêu, Hồ Quảng, Liên huờn, Bình bản (Bình nguyên), Tây
mai, Kim tiền Huế, Xuân phong, Long hổ, Tẩu mã...
- Nhạc bản cải
tiến từ nhạc cổ Trung Quốc: Uyên ương hội vũ, Khốc hoàng thiên, Tân xái
phỉ, Ngũ điểm, Bài tạ, Mạnh Lệ Quân, Xang xừ liếu, Lạc âm thiều, Tô Vũ
mục dương, Quý phi túy tửu...
- Nhạc bản được cải tiến từ dân ca: Lý con sáo, Lý thập tình, Lý ngựa ô, Lý giao duyên, Ngựa ô nam...
Khoảng
3 giờ chiều, buổi lễ chấm dứt. Kèn trống nổi lên, mọi người hướng về
linh vị Tổ bái ba bái, sau đó cùng nhau dọn dẹp và tuần tự ra về. Ban tế
lễ và những nhạc sĩ lớn tuổi ở lại để dự một cuộc họp thường niên. Cuộc
họp này gồm 2 phần: Phần thứ nhất là giải quyết những vấn đề trong nội
bộ, nhất là tương trợ các gia đình nhạc sĩ, ca sĩ nghèo; phần thứ hai là
những đề nghị, những ý kiến chung cho ngành cổ nhạc Nam bộ. Thường là
cuộc họp kết thúc trong sự thống nhất vui vẻ.
Các hoạt động khác
diễn ra trong lễ hội bao gồm các chương trình biểu diễn nghệ thuật,
giao lưu Đờn Ca tài tử, rước đèn trung thu và thả hoa đăng, tổ chức khu
ẩm thực Bạc Liêu, trưng bày hiện vật, hình ảnh về cố NS Cao Văn Lầu và
các sản phẩm nghề truyền thống…
Ngoài viêc khơi dậy giá trị truyền thông lễ hội Dạ cổ hoài lang còn góp phần quảng bá hình ảnh, tiềm năng du lịch của Bạc Liêu đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của người dân./.
Nguồn: http://manghoidap.vn/Le-hoi-Da-co-hoai-lang-Bac-Lieu-12532.html
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét