Hội được bắt đầu vào tháng giêng và kéo dài đến trung tuần tháng
ba.Theo tín ngưỡng dân gian dân tộc Tày thì trên cung trăng có Mẹ Trăng
và mười hai nàng tiên - con gái của mẹ. Mẹ cùng các nàng hằng năm chăm
lo bảo vệ mùa màng cho dân. Hội Nàng Hai được tổ chức với ý nghĩa tượng
trưng các mẹ các nàng ở dưới trần gian hành trình lên trời đón Mẹ Trăng
và các nàng tiên xuống thăm trần gian và giúp trần gian trong công việc
làm ăn để sinh sống.
Thời gian tổ chức hội Nàng Hai
phụ thuộc vào thời gian đã quy định ở từng xóm từ thời xa xưa truyền
lại; như ở Bản Guống đón trăng vào ngày mùng 6 tháng hai và đưa tiễn
trăng vào ngày 24 tháng 3. Bản Nưa Khau đón trăng vào ngày 11 tháng 2 và
đưa tiễn trăng vào ngày 22 tháng 3. Bản Ngườm Cuông đón trăng vào ngày
15 tháng 2 và đưa tiễn trăng vào ngày 21 tháng 3.
Để tổ chức hội
Nàng Hai, các cụ già trong bản chọn một bà mẹ có cuộc sống gia đình hoàn
thiện, hát giỏi để làm Mẹ Trăng, tiếng địa phương gọi là "Mụ cốc" và
chọn lấy 12 đến 18 cô gái trẻ đóng vai nàng tiên. Trong các cô này chọn
ra hai cô gái chưa chồng để đóng hai chị em trăng. Cô chị gọi là "Nàng
Slở", cô em gọi là "Nàng Gường". Chọn lấy hai thiếu niên nam mang lễ đi
trước mở đường cho cuộc hành trình các nàng và mẹ trăng đi lên trời.
Về
trang phục: Mẹ Trăng (Mụ cốc) mặc quần áo chàm, trên đầu buộc một dẻ
vải đỏ vắt chéo qua trên khăn. Khi hành lễ, đến đoạn múa lên đường, mẹ
trăng tay cầm ngọn mía, trên ngọn mía có treo một túi đựng trầu nhỏ, một
chiếc mù soa, và một bát nước có đặt một lá bưởi. Bát nước và ngọn mía
có ý nghĩa tượng trưng cho việc tẩy uế.
Hai
thiếu niên nam mặc quần áo chàm, trên đầu buộc hai dẻ vải đỏ, ngang
hông buộc thắt lưng bằng vải đỏ. Đến khi Mẹ Trăng và các nàng tiên làm
cuộc hành trình thì hai thiếu niên tay cầm mỗi người một cây trúc nhỏ
tỉa cành, chỉ để lại mấy cành ở ngọn, trên ngọn buộc một chiếc khăn tay.
Theo tiếng dân tộc hai cây trúc này gọi là cây "cụ tiến". Cây "cụ tiến"
với ý nghĩa là mở đường cho Mẹ Trăng và các nàng tiên lên trời cầu các
mẹ trăng xuống giúp trần gian trong các công việc làm ăn.
Hai
nàng trăng, trăng chị (nàng Slở) thì mặc áo vàng, trên đầu vấn khăn có
buộc một dẻ vải màu vàng chéo qua trên khăn, trăng em (nàng Gường) thì
mặc áo đỏ, trên đầu buộc dẻ vải màu đỏ. Theo sau trăng chị, trăng em là
sáu hoặc tám cô gái mặc áo chàm, trên đầu cô nào cũng buộc dẻ vải màu
đỏ, hoặc màu vàng. Các cô này gọi là các mụ nàng đi phục vụ cho hai nàng
trăng. Trong lễ hội còn có ông Tào làm lễ cúng các thần để cho lễ hội
diễn ra và kết thúc an toàn.
Khi đã chuẩn bị xong mọi thứ, dân
bản dựng một cái lều ở nơi khô ráo trong bản, gọi là lều trăng, tiếng
địa phương gọi là "Thiêng hai". Lều được dựng sơ sài lợp rơm, trong lều
kê mấy tấm phản dùng làm chỗ ngồi cho mẹ trăng và các nàng tiên khi làm
lễ. Trước lều các cô gái vào rừng hái các hoa rừng như: Bioóc Mạ, hoa
cây Khảo Quang, hoa Guột, hoa Chuối... về buộc lại từng bó vắt lên sào
treo trước lều trăng. Trước khi hành lễ những người đóng vai Mẹ Trăng
(Mụ cốc) và các nàng đứng trước bàn thờ để ông Tào làm lễ hóa thân. Theo
trình tự, mỗi người hít thở ba lần khói hương để tống khứ linh hồn của
người ra để linh hồn Mẹ Trăng và các nàng tiên nhập vào. Sau lễ nhập hồn
việc hành lễ đón trăng bắt dầu. Sau ngày lễ đón trăng, Mẹ Trăng và các
nàng đã làm lễ nhập hồn rồi về nhà không được làm những công việc uế tạp
như gánh phân, vào chuồng gia súc...
Việc hành lễ hội: Sau lễ
đón trăng xuống, các đêm tiếp theo là làm lễ cúng các Mẹ Trăng. Lễ cũng
làm trong mười hai đêm. Mỗi đêm cúng mời một Mẹ Trăng xuống giúp cho
trần gian làm ăn. Lễ cúng được miêu tả là cuộc hành trình các nàng tiên
lên trời đến các cửa của các Mẹ Trăng như cửa mẹ Lạn Ba, mẹ Khắc Cơ, mẹ
Bích Lam, mẹ Bích Vân, mẹ Lưỡng Tàm, mẹ Mạ Mỳ... Theo dân gian thì mỗi
mẹ phụ trách một công việc; như mẹ Khắc Cơ bảo quản giống lúa, mẹ Bích
Lan thì coi giống bông, mẹ Lưỡng Tàm thì quản giống Tằm, mẹ Mạ Mỳ thì
trông coi các loại sâu bọ, cầu mẹ nhốt các loại sâu bọ lại không cho nó
phá hoa màu...
Sau khi đã cầu hết các cửa, xin các mẹ được đầy đủ
các giống cây, con, các điều kiện mưa gió thuận cho việc trồng trọt, làm
ăn ở trần gian thì dân bản lại tổ chức đưa tiễn các nàng trăng về trời.
Lễ này được tổ chức chu đáo và là ngày hội chính thức trong năm của
bản, lễ hội này thu hút nhiều người ở địa phương khác đến chơi.
Tổ
chức lễ tiễn các nàng trăng về trời, dân bản lại dựng một lều trăng thứ
hai ở ngoài cổng. Lễ này được tổ chức trong một ngày. Trước khi ra hành
lễ đưa tiễn các nàng trăng về trời ở ngoài đồng, Mẹ Trăng và các nàng
trăng phải làm lễ chia tay trong lều đón trăng ở trong bản, họ hát các
bài hát chia tay và vừa đi vừa dùng tay du mạnh những cột lều để cho lều
đổ, mục du lều đổ này gọi là mục "Trụ trại". Sau lễ "Trụ trại", Mẹ
Trăng và các nàng trăng ra cầu thần trông coi đầu bản và cuối bản mở cửa
cho Mẹ Trăng và các nàng trăng về trời.
"Lều
trăng" ở giữa đồng cũng dựng sơ sài như lều trăng ở trong bản, phía
trước lều có đặt các mâm cỗ, trong đó có ba mâm to, một mâm có thủ lợn,
xôi, rượu, hai mâm có con gà, xôi, các mâm khác chỉ có xôi ngũ sắc. Bên
cạnh các mâm có đặt những chiếc thuyền đẽo bằng gỗ, trong đó có một
chiếc to, trang trí đẹp hơn. Các thuyền này tượng trưng là những con
thuyền chở của cải, hoa trái của dưới dương gian đưa lên tiến cho các Mẹ
Trăng lên trời. Trước cửa "lều trăng" là những hàng cọc dựng lên thành
khung, mỗi khung cách nhau chừng hai mét, trên những khung đó được trải
những tấm vải lợp qua, tạo thành một đường vòng quanh sân. Những khung
lợp vải này gọi là "trại mùng mành". Khi hành lễ đoàn các mẹ và các nàng
trăng đi qua dưới những tấm vải lợp này. Trong "lều trăng" có trên
những sào hoa rừng ở trước lều, những sào hoa này được các nàng phụ đi
theo hai nàng trăng khiêng từ lều đón trăng trong bản ra. Trước lều đặt
một mâm hương có ba bát gạo một bát có quả trứng gà, một bát có cắm ba
con én gấp bằng giấy, ba chiếc thía dùng đựng rượu và một số các loại
giống hoa màu. Trong lễ tiễn trăng này, sau khi làm xong lễ đưa tiễn,
múa, đưa của cải lên thuyền cho các mẹ và các nàng trăng về trời thì các
nàng phụ khiêng hai sào hoa và một người già cầm chiếc thuyền to nhất
đi xuống trước bản thả. Sau khi thả thuyền và đặt hoa ở bên suối, thầy
Tào làm phép tách vía cho mẹ và các nàng trăng, cùng với thầy Tào, thân
nhân, bạn bè của hai cô đóng vai trăng chị và trăng em, gọi hồn vía
người ở trần gian nhập lại vào người để trở về người trần. Hai cô phải
rũ bỏ khăn vấn trên đầu và ra khỏi chỗ làm lễ tách nhập hồn.
Sau mấy chục năm lễ hội Nàng Hai của người Tày ở Cao Bằng không có điều kiện tổ chức, đến năm 1996 Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Cao Bằng
đã đồng ý cho bà con ở xã Tiên Thành tổ chức lại lễ hội này. Lễ Hội
Nàng Hai ở Tiên Thành tuy mới được khôi phục lại nhưng đã có sức cuốn
hút nhiều người. Cái độc đáo nhất là lễ hội vừa thể hiện tín ngưỡng dân
tộc, vừa phản ánh nguyện vọng của dân tộc Tày nói riêng và các dân tộc
miền núi nói chung trong sự sinh tồn, trong bối cảnh nông thôn miền núi.
Việc khôi phục lại lễ hội Nàng hai là gìn giữ cho dân tộc Tày một lễ
hội cổ truyền mang tính văn hóa, đồng thời gìn giữ được làn điệu dân ca
"lượn hai" mà lâu nay trong các làn điệu dân ca dân tộc Tày, người sưu
tầm gần như đã quên lãng
Nguồn: http://manghoidap.vn/Le-hoi-Nang-Hai-cua-dan-toc-Tay-Cao-Bang-12646.html
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét